Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, các quốc gia không chỉ cạnh tranh về kinh tế, công nghệ mà còn gia tăng ảnh hưởng thông qua “quyền lực mềm” như ngoại giao văn hóa và y tế. Nghị quyết số 59‑NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã xác định rõ, hội nhập quốc tế là động lực chiến lược, và việc tăng cường hội nhập trên các lĩnh vực như y tế, du lịch, văn hóa… là nhiệm vụ quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng, chiều sâu và hiệu quả hội nhập, đồng thời góp phần bứt phá để Việt Nam vươn lên ngày càng mạnh mẽ.
Trên nền tảng hội nhập toàn diện theo tinh thần của Nghị quyết 59, du lịch y tế là cơ hội để đưa sức khỏe, văn hóa và dịch vụ chất lượng của Việt Nam lan tỏa toàn cầu, xứng đáng là biểu tượng của nền “quyền lực mềm” Việt Nam thời đại mới.
Y học Việt Nam đang từng bước “vươn ra biển lớn”, khẳng định vị thế không chỉ trong khu vực mà cả trên trường quốc tế. Hiện nay, nhiều bác sĩ Việt Nam đã và đang mang những kỹ thuật y tế tiên tiến của nước ta ra thế giới thông qua các chương trình hợp tác, chuyển giao và điều trị quốc tế. Đồng thời, nhiều bệnh viện (BV) lớn trong nước cũng trở thành nơi đào tạo, trao đổi chuyên môn cho các bác sĩ đến từ nhiều quốc gia. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng của nền y tế Việt Nam - một lĩnh vực đang góp phần tích cực vào các sáng kiến y tế toàn cầu thông qua hợp tác đa phương, chia sẻ tri thức và nâng cao năng lực chuyên môn quốc tế.
Một trong những biểu tượng tiêu biểu cho hành trình ấy là AHLĐ.TTND.PGS.TS Trần Ngọc Lương – nguyên Giám đốc Bệnh viện Nội tiết T.Ư, được biết đến là “cha đẻ” của kỹ thuật mổ nội soi tuyến giáp mang dấu ấn Việt Nam. Đây là kỹ thuật đầu tiên trên thế giới do chính bác sĩ Việt Nam nghiên cứu và thực hiện thành công, với chi phí chỉ bằng 1/25 so với các nước trong khu vực. Trong khi một ca phẫu thuật cắt thùy tuyến giáp tại Hàn Quốc hay Singapore có giá khoảng 8.000 – 10.000 USD, thì tại Việt Nam, kỹ thuật này chỉ mất 30 phút, chi phí chỉ từ 300 – 400 USD.
Từ năm 2009, PGS.TS Trần Ngọc Lương đã bắt đầu chuyển giao kỹ thuật cho một BV tại Malaysia và mở rộng đào tạo cho hơn 300 giáo sư, bác sĩ đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Đến nay, phương pháp này đã được chuyển giao thành công tới các nước như Australia, Bồ Đào Nha, Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Saudi Arabia… và được y học thế giới vinh danh với tên gọi “Công nghệ phẫu thuật nội soi Dr Lương”.
Bác sĩ Pavithra Shanmugam - Tư vấn viên tại Trung tâm ung thư Apollo Proton (Ấn Độ) từng chia sẻ lý do đến Việt Nam để học kỹ thuật “Dr Lương”: tại Ấn Độ, phương pháp này chưa phổ biến, trong khi ở Việt Nam, kỹ thuật không chỉ chi phí thấp, thời gian phẫu thuật ngắn, hồi phục nhanh, ít xâm lấn mà còn đạt hiệu quả điều trị cao. Điều đó càng khẳng định sức hút và uy tín của y học Việt Nam trong mắt cộng đồng y khoa quốc tế.
Còn GS.TS Mai Trọng Khoa - nguyên Phó Giám đốc BV Bạch Mai, không chỉ là người tiên phong đưa các kỹ thuật y học hiện đại của thế giới về Việt Nam mà còn góp phần khẳng định vị thế và năng lực của ngành y học hạt nhân và ung thư Việt Nam trên bản đồ y khoa toàn cầu. Sự đóng góp quốc tế của GS.TS Mai Trọng Khoa không theo nghĩa "xuất khẩu" một kỹ thuật do Việt Nam tự phát minh, mà là việc chia sẻ kinh nghiệm, kết quả ứng dụng thành công các kỹ thuật đỉnh cao, qua đó cung cấp dữ liệu và minh chứng thực tiễn quý báu cho cộng đồng y khoa thế giới. Một trong những minh chứng rõ nét nhất cho vai trò quốc tế của GS.TS Mai Trọng Khoa là sự hợp tác chặt chẽ với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). GS.TS Mai Trọng Khoa và các đồng nghiệp đã trực tiếp chia sẻ dữ liệu, kinh nghiệm của Việt Nam trong việc chẩn đoán và điều trị các mặt bệnh ung thư phổ biến; những thành công, thách thức và giải pháp trong việc triển khai các kỹ thuật phức tạp như PET/CT, xạ phẫu bằng dao Gamma, xạ trị trong chọn lọc (SIRT)...
Bác sĩ Nguyễn Phú Hữu - Phó khoa Ngoại tiêu hóa, BV Bình Dân (TP Hồ Chí Minh), là thế hệ đầu học mổ robot của BV. Đây là bác sĩ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam chuyển giao kỹ thuật mổ robot ở nước bạn Philippines. Đến nay, bác sĩ Nguyễn Phú Hữu đã mổ bằng robot trên 350 ca bệnh.
Có thể thấy, tại TP Hồ Chí Minh, BV Chợ Rẫy là một trong những đơn vị tích cực nhất trong việc tiếp nhận học viên quốc tế, thường xuyên đào tạo cho các bác sĩ đến từ Indonesia, Philippines về các kỹ thuật chuyên sâu như phẫu thuật cắt gan, phẫu thuật nội soi, và ngoại tiêu hóa. Mỗi năm, BV tiếp đón hàng trăm sinh viên từ Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Australia... đến thực tập tại hầu hết các chuyên khoa như Bệnh nhiệt đới, Cấp cứu, Nội Tim mạch và Phỏng - Tạo hình.
BV Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh (UMC) có thế mạnh trong việc đào tạo và chuyển giao kỹ thuật ở nhiều lĩnh vực như Nhãn khoa, Ngoại Thần kinh, Tim mạch - Lồng ngực, và Phẫu thuật Chấn thương chỉnh hình là điểm đến của nhiều sinh viên và bác sĩ từ Nhật Bản, Autralia, Mỹ, Đức, Pháp... Trong khi đó, BV Từ Dũ là nơi các bác sĩ và chuyên gia trong khu vực đến học hỏi kinh nghiệm, đặc biệt trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm và phẫu thuật nội soi sản phụ khoa.
Tại Hà Nội, BV Bạch Mai là địa chỉ được nhiều bác sĩ quốc tế lựa chọn, trở thành điểm đến hấp dẫn cho các bác sĩ từ Philippines và các nước trong khu vực đến học tập các kỹ thuật cao về điện quang can thiệp, đặc biệt là can thiệp thần kinh để điều trị đột quỵ và các bệnh lý mạch máu não phức tạp.
Có thể khẳng định, Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật hiện đại, sở hữu nhiều kỹ thuật y khoa ngang tầm khu vực và tiệm cận chuẩn quốc tế. Chia sẻ về những tiến bộ vượt bậc của y học nước nhà, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn cho biết: “Những năm qua, chất lượng khám chữa bệnh tại Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt. Trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ không thua kém các nước trong khu vực và thế giới. Nhiều kỹ thuật y học hiện đại như phẫu thuật nội soi, ghép tạng, sử dụng robot… đã được làm chủ và triển khai thành công ngay trong nước, thay vì phải ra nước ngoài như trước đây, giúp người bệnh tiết kiệm đáng kể chi phí. Đặc biệt, mức giá hợp lý là yếu tố quan trọng thu hút ngày càng nhiều bệnh nhân quốc tế đến Việt Nam điều trị.”
Thực tế đã chứng minh, thời gian qua, Việt Nam đã làm chủ hàng loạt các kỹ thuật phức tạp. Thật tự hào khi Việt Nam đã thực hiện thành công các loại hình ghép tạng phổ biến trên thế giới như ghép tim, gan, thận, phổi, tụy, giác mạc. Đặc biệt, những ca đa tạng phức tạp, như ca ghép hai phổi từ người cho chết não tại BV T.Ư Quân đội 108; Hữu nghị Việt Đức. Hơn 30 năm qua, kể từ ca ghép tạng đầu tiên (năm 1992) đến nay, các cơ sở y tế ở Việt Nam đã thực hiện thành công hơn 8.000 ca ghép tạng.
Gần đây, phẫu thuật bằng robot (robotic surgery), đặc biệt là robot Da Vinci đã được triển khai tại nhiều BV lớn như Bình Dân, Chợ Rẫy, K, Vinmec... giúp các ca phẫu thuật, nhất là trong ung thư trở nên chính xác, ít xâm lấn và giúp bệnh nhân phục hồi nhanh hơn. Các phương pháp điều trị ung thư tiên tiến nhất trên thế giới như liệu pháp miễn dịch tự thân, liệu pháp nhắm trúng đích, xạ trị proton (sắp triển khai)... đang dần được áp dụng tại Việt Nam, mở ra nhiều hy vọng cho bệnh nhân ung thư.
Không chỉ vậy, Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ thành công trong thụ tinh ống nghiệm cao hàng đầu thế giới với chi phí hợp lý. Các BV Từ Dũ, Phụ sản T.Ư đã giúp hàng chục nghìn cặp vợ chồng hiếm muộn có được hạnh phúc làm cha mẹ. “Tỷ lệ thành công khi thực hiện IVF tại Việt Nam từ 40 - 45%, chi phí chỉ bằng 1/3 so với nhiều nước trong khu vực. Chi phí thấp, bác sĩ có trình độ tay nghề cao là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người nước ngoài và Việt kiều tìm về Việt Nam để khám và điều trị” - bác sĩ Hồ Mạnh Tường - Tổng Thư ký Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP Hồ Chí thông tin.
Tại buổi thăm và chúc mừng Bộ Y tế nhân dịp Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị Bộ Y tế chú trọng thúc đẩy nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; hợp tác với các tổ chức y tế quốc tế để đào tạo bác sĩ, tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến; tạo điều kiện để bác sĩ tham gia hội nghị khoa học, trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia nước ngoài để không ngừng nâng cao trình độ, kinh nghiệm.
Có thể nói, đưa y tế Việt Nam vươn tầm khu vực và quốc tế không chỉ là định hướng phát triển của ngành mà còn là biểu hiện sinh động của một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, có khát vọng vươn lên và khẳng định vị thế. Xây dựng thương hiệu quốc gia về du lịch y tế không chỉ góp phần thúc đẩy ngành y phát triển toàn diện, mà còn mở ra cánh cửa cho nhiều lĩnh vực khác cùng cất cánh, từ du lịch, dịch vụ cho đến khoa học công nghệ.
Với nhiều người nước ngoài, Việt Nam không còn chỉ là điểm đến du lịch thông thường. Những năm gần đây, ngày càng nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam để khám chữa bệnh, và rời đi với ấn tượng sâu đậm về văn hóa, con người, và lối sống nơi đây. Tại Việt Nam, hành trình chữa bệnh của du khách còn được mở rộng thành trải nghiệm văn hóa: từ châm cứu, xoa bóp bằng thảo dược, đến khám phá ẩm thực truyền thống, tham gia các lễ hội địa phương, hay nghỉ dưỡng trong không gian sinh thái mang đậm màu sắc bản địa.
“Du lịch y tế không chỉ là hành trình chữa bệnh, đó còn là cơ hội để du khách trải nghiệm một phần sâu sắc của văn hóa Việt Nam”, ông Hà Văn Siêu - Phó cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam nhận định.
Bà Agnès Mulindwa (56 tuổi, đến từ Burundi) từng trải qua ca phẫu thuật sỏi thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Sau điều trị, sức khỏe phục hồi tốt, bà cùng con trai tranh thủ tham quan địa đạo Củ Chi, chợ Bến Thành và vài ngày nghỉ tại Phú Quốc. “Chi phí hợp lý, bác sĩ giỏi, tôi cảm thấy được chăm sóc rất tận tình. Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là không khí nhẹ nhàng, đồ ăn Việt rất ngon và nhiều người biết tiếng Anh”, bà Agnès chia sẻ.
Không chỉ trong lĩnh vực y học hiện đại, các cơ sở y học cổ truyền cũng đang thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế. Năm 2024, Bệnh viện Y học cổ truyền Đà Nẵng đã phục vụ hơn 600 lượt khám chữa bệnh cho khách quốc tế – phần lớn đến từ Nga, Đức, Trung Quốc. Trong khi đó, Viện Y dược học dân tộc TP Hồ Chí Minh cũng đón nhiều đoàn khách đến học và trải nghiệm các phương pháp châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp kết hợp nghỉ dưỡng.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, y dược cổ truyền Việt Nam là một di sản văn hóa vô giá, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử và gắn liền với trí tuệ, tâm hồn, cũng như bản sắc của dân tộc. Không chỉ đơn thuần là một phương pháp chữa bệnh, y học cổ truyền còn thể hiện sâu sắc triết lý sống hòa hợp với thiên nhiên, tinh thần nhân ái, và sự gắn bó bền chặt giữa con người với cộng đồng. Đó là một kho tàng tri thức mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam, mà chúng ta có quyền tự hào và trách nhiệm gìn giữ, phát huy.
Trong bối cảnh y học hiện đại phát triển mạnh mẽ, việc bảo tồn, kế thừa và phát triển y học cổ truyền không chỉ góp phần làm phong phú thêm các phương thức chăm sóc sức khỏe, mà còn là một phần quan trọng trong việc giữ gìn và lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc. Đặc biệt, khi được lồng ghép vào mô hình du lịch y tế - một xu hướng đang được nhiều quốc gia quan tâm, y học cổ truyền Việt Nam trở thành một lợi thế cạnh tranh độc đáo.
Chính sự kết hợp hài hòa giữa chăm sóc sức khỏe và trải nghiệm văn hóa đã tạo nên điểm khác biệt rõ nét cho du lịch y tế Việt Nam, điều mà không phải quốc gia nào cũng có được. Du khách quốc tế không chỉ đến Việt Nam để điều trị, nghỉ dưỡng, mà còn để cảm nhận chiều sâu văn hóa qua từng thang thuốc, từng bài trị liệu, từng ngôi nhà cổ, làng nghề, và hình ảnh người thầy thuốc với tâm huyết và tri thức dân tộc. Đây chính là cơ hội để Việt Nam không chỉ phát triển kinh tế y tế, mà còn quảng bá hiệu quả văn hóa truyền thống ra thế giới - một cách “chữa lành” thể chất gắn liền với việc nuôi dưỡng tâm hồn.
Nhiều chuyên gia về du lịch cũng cho rằng, chúng ta có nền y học cổ truyền được thế giới đánh giá cao, có nguồn dược liệu và danh lam thắng cảnh, nhưng chưa tạo thành sản phẩm du lịch y học thực thụ. Nếu có quy hoạch rõ ràng, đây sẽ là ngành mũi nhọn trong tương lai, không chỉ là ngành kinh tế dịch vụ, mà còn là phương tiện hiệu quả để lan tỏa văn hóa mềm, nâng cao vị thế quốc gia.
Tại buổi thăm và chúc mừng Bộ Y tế nhân kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2) đầu năm nay, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy vai trò của y học cổ truyền trong hệ thống y tế quốc gia. Tổng Bí thư đề nghị cần đẩy mạnh việc kết hợp hài hòa giữa y học cổ truyền và y học hiện đại trong công tác chẩn đoán, điều trị bệnh, nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe Nhân dân.
Bên cạnh đó, Tổng Bí thư cũng lưu ý việc tăng cường nghiên cứu các bài thuốc dân gian, từng bước chuẩn hóa và nâng cao tính khoa học của y học cổ truyền. Đồng thời, cần đầu tư phát triển các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu về đông y, chú trọng ứng dụng các phương pháp chữa bệnh hiệu quả từ thảo dược và y dược cổ truyền. Cùng với đó, công tác đào tạo đội ngũ bác sĩ y học cổ truyền cần được quan tâm hơn nữa, gắn liền với việc mở rộng các mô hình kết hợp Đông - Tây y tại các cơ sở khám, chữa bệnh, góp phần xây dựng một nền y tế toàn diện, hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc dân tộc.
Du lịch y tế, hiểu đơn giản là hình thức du lịch kết hợp khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, thẩm mỹ, đang trở thành một xu hướng toàn cầu. Các quốc gia như Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc đã sớm nhận ra tiềm năng to lớn của lĩnh vực này, biến nó thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, đồng thời là công cụ đắc lực trong chiến lược ngoại giao y tế - quảng bá năng lực y học và củng cố niềm tin quốc tế, cũng như ngoại giao văn hóa, đưa hình ảnh đất nước, con người đến gần hơn với bạn bè thế giới.
Việt Nam cũng không ngoại lệ, khi một người nước ngoài chọn đến Việt Nam không chỉ để ngắm cảnh, mà để chữa bệnh, phẫu thuật thẩm mỹ, hay hồi phục sau điều trị… đó không đơn thuần là một lựa chọn kinh tế. Đó là niềm tin. Và cũng chính từ những niềm tin ấy, du lịch y tế đang dần trở thành một “ngành công nghiệp mềm” đầy tiềm năng, góp phần quảng bá năng lực y học Việt Nam, củng cố uy tín quốc gia và lan tỏa hình ảnh đất nước nhân ái, hiện đại đến bạn bè quốc tế.
Có thể nói, Việt Nam với hạ tầng y tế ngày càng hiện đại, đội ngũ bác sĩ có tay nghề cao, chi phí điều trị hợp lý và hệ sinh thái du lịch phong phú, đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành một trung tâm du lịch y tế mới của khu vực châu Á.
Điều làm nên uy tín không chỉ đến từ chiến lược, mà còn từ những ca điều trị thực tế đầy thuyết phục, nơi bệnh nhân quốc tế không chỉ được cứu sống, mà còn mang theo lòng biết ơn, trở thành những “đại sứ truyền thông” cho y tế Việt Nam.
Những lý do thu hút nhiều người nước ngoài đến Việt Nam thực hiện các dịch vụ y tế là chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe đang được nâng cao, chi phí điều trị thấp hơn nhiều so với nước ngoài, tay nghề bác sĩ Việt Nam không thua kém bác sĩ ở các nước phát triển...
Mỗi bệnh nhân quốc tế rời Việt Nam với sức khỏe tốt lên và lòng tin lớn hơn chính là một hành động ngoại giao y tế thực thụ. Những ca điều trị thành công, được chia sẻ trên mạng xã hội, trong các cộng đồng người nước ngoài, chính là những “thước phim người thật việc thật” về y tế Việt Nam hiện đại, hiệu quả và nhân văn.
Không những thế, khi kết hợp với các tour nghỉ dưỡng tại Nha Trang, Đà Nẵng, Hội An hay Sa Pa, các dịch vụ y tế như nha khoa, phẫu thuật thẩm mỹ, phục hồi chức năng, trị liệu bằng đông y… cũng trở thành cầu nối văn hóa, mang lại trải nghiệm vừa chuyên môn vừa giàu cảm xúc.
Một bệnh nhân răng hàm mặt người Pháp, sau khi cấy ghép tại TP Hồ Chí Minh, đã dành thêm 10 ngày du lịch Tây Nguyên, rồi quay trở lại Việt Nam năm sau để điều trị tiếp. Một nữ doanh nhân Nhật đến TP Hồ Chí Minh để điều trị thoát vị đĩa đệm, nhưng cũng tranh thủ “tận hưởng sự dễ chịu của văn hóa Việt Nam qua từng bữa ăn, ly trà gừng và nụ cười của bác sĩ.”
Việc điều trị thành công cho bệnh nhân nước ngoài, nhất là trong các ca khó hoặc điều trị chuyên sâu, giúp nâng cao uy tín và vị thế ngành y tế Việt Nam. Đó chính là hình thức ngoại giao y tế hiệu quả, thể hiện trách nhiệm quốc tế và năng lực nội tại của quốc gia. Theo báo cáo quốc tế, thị trường du lịch y tế toàn cầu năm 2024 đạt 100 tỷ USD, với mức tăng trưởng hằng năm từ 15 đến 25%. Tại Việt Nam, quy mô thị trường đã đạt khoảng 700 triệu USD trong năm 2024 và dự báo có thể đạt gần 4 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng bình quân 18%/năm. Những con số này cho thấy tiềm năng to lớn và dư địa bứt phá mạnh mẽ của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan từng phát biểu tại một hội thảo tại cuộc họp Nhóm đối tác y tế năm 2024, trong đó nhấn mạnh tăng cường vai trò, vị thế của y tế Việt Nam trên trường quốc tế; thúc đẩy các hợp tác về y tế. “Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược với nhiều quốc gia trên thế giới và là thành viên tích cực của Liên Hợp quốc. Tôi hy vọng hợp tác về y tế tiếp tục là một phần quan trọng trong mối quan hệ hợp tác chiến lược song phương và đa phương của quốc gia. Thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ kỹ thuật, chúng ta có thể nâng cao chất lượng dịch vụ y tế trong nước. Đồng thời, điều này cũng góp phần khẳng định vai trò, vị thế và trách nhiệm của Việt Nam trong các vấn đề sức khỏe toàn cầu” - Bộ trưởng Đào Hồng Lan nhấn mạnh. Cũng theo Bộ trưởng Bộ Y tế, Việt Nam cần tận dụng lợi thế về nhân lực y tế, dịch vụ chi phí hợp lý và các yếu tố bản sắc để xây dựng thương hiệu du lịch y tế mang đậm dấu ấn Việt.
Trong thế giới hiện đại, khi quyền lực mềm ngày càng quan trọng, thì du lịch y tế chính là công cụ “2 trong 1” đầy hiệu quả, vừa phát triển kinh tế, vừa lan tỏa hình ảnh quốc gia. Với sự đầu tư đồng bộ và cách tiếp cận chiến lược, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành điểm đến y tế lý tưởng tại châu Á - nơi du khách không chỉ tìm thấy sức khỏe, mà còn tìm thấy niềm tin, sự đồng cảm và một Việt Nam đáng nhớ.
Còn nhớ, trong cuộc chiến cam go chống đại dịch Covid-19, hình ảnh một Việt Nam đoàn kết, nhân ái và kiên cường đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn bè quốc tế. Nhiều Đại sứ và đại diện ngoại giao các nước tại Việt Nam đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với tinh thần “chống dịch như chống giặc” đầy quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Không chỉ nỗ lực kiểm soát dịch bệnh trong nước, Việt Nam còn thể hiện rõ nét tinh thần trách nhiệm quốc tế và nghĩa cử cao đẹp khi chủ động hỗ trợ khẩu trang, thiết bị y tế và vật tư y tế cho nhiều quốc gia đang gặp khó khăn.
Những hành động kịp thời, mang tính nhân đạo ấy đã thể hiện sinh động chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta – một nền ngoại giao “cây tre” mềm dẻo mà kiên cường, nhất quán với phương châm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Qua đó, Việt Nam đã không chỉ khẳng định vị thế, uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế mà còn góp phần thúc đẩy hợp tác đa phương trong lĩnh vực y tế.
Chính tinh thần đoàn kết dân tộc gắn với tinh thần trách nhiệm toàn cầu ấy đã tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục chủ động, tích cực tham gia vào các sáng kiến y tế toàn cầu, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển bền vững của nhân loại. Đây không chỉ là minh chứng cho bản lĩnh của một quốc gia đang phát triển năng động, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược và chiều sâu nhân văn trong đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng.
Phát triển du lịch y tế không thể tách rời khỏi lộ trình hội nhập và phát triển chung của đất nước theo các định hướng lớn mà Đảng đã đề ra. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã khẳng định du lịch không chỉ là lĩnh vực kinh tế quan trọng, mà còn là cầu nối giao lưu văn hóa, mở rộng quan hệ quốc tế. Trong khi đó, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị tiếp tục nhấn mạnh hội nhập quốc tế là động lực chiến lược, trong đó hội nhập về y tế, du lịch và văn hóa là các trụ cột quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia và khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Loạt bài “Du lịch y tế Việt Nam: Đón bệnh nhân, mở cánh cửa hội nhập” khép lại tại đây, nhưng hành trình nâng tầm thương hiệu quốc gia bằng sức mạnh mềm - thông qua y tế, du lịch và văn hóa vẫn đang tiếp tục rộng mở. Khi Việt Nam chủ động đón nhận cơ hội, thúc đẩy liên kết liên ngành, đầu tư bài bản và sáng tạo, thì du lịch y tế hoàn toàn có thể trở thành biểu tượng mới của một Việt Nam hiện đại, nhân văn và hội nhập, đúng như tinh thần các nghị quyết lớn của Đảng: phát triển nội lực vững chắc, mở rộng hợp tác hiệu quả và vươn tầm quốc tế với bản lĩnh và bản sắc riêng.
Xem các bài viết liên quan đến loạt bài “Du lịch y tế Việt Nam: Đón bệnh nhân, mở cánh cửa hội nhập”:
Bài 1: Cơ hội vàng giữa dòng chảy toàn cầu
Bài 2: Điểm đến hy vọng của bệnh nhân quốc tế






