Với sự đóng góp của khoảng 370 nhân vật nổi tiếng, trí thức và nhân sĩ thời bấy giờ, ấn bản tháng 4/1920 của tạp chí Nihon Oyobi Nihonjin (Nhật Bản và người Nhật) từng đăng một bài đặc biệt về diện mạo đất nước sau 100 năm nữa.
Sakio Tsurumi, Giám đốc Cục Lâm nghiệp của chính phủ lúc bấy giờ, dự đoán rằng dân số cả nước sẽ tăng gần gấp 5 lần lên khoảng 260 triệu người vào năm 2020, xấp xỉ gấp đôi so với thực tế hiện nay. Giáo sư Riichiro Hoashi của Đại học Waseda kỳ vọng phần lớn chi tiêu của chính phủ sẽ tập trung vào giáo dục, trong khi trên thực tế, dân số già đã khiến phí an sinh xã hội tăng cao.
Không phải tất cả những lời tiên đoán đều hoàn toàn sai. Như bác sĩ Rinketsu Shikitsu dự kiến, tuổi thọ trung bình của người Nhật thực sự đã đạt tới 80 đến 90 tuổi nhờ sự phát triển của y học (trái ngược với khoảng 42 và 43 tuổi vào đầu những năm 1920).
Và công nghệ đã cho phép sản xuất và lưu trữ điện được sản xuất từ năng lượng mặt trời - điều mà kỹ sư xây dựng Ayahiko Ishibashi đã thấy trước.
Trong khi biến đổi khí hậu là mối đe dọa được nhắc đến nhiều đối với Nhật Bản, giáo sư Tomoya Mori từ Đại học Kyoto tin rằng tình trạng suy giảm dân số có thể gây ra nhiều tác hại hơn.
Có lẽ trong số những hiện tượng lâu dài có thể dự đoán được và thường xuyên được trích dẫn ảnh hưởng đến thế giới là biến đổi khí hậu. Ví dụ, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở các thành phố trên khắp nước Mỹ có thể cao hơn khoảng 4,4 độ C, theo Climate Central.
Có thể cho rằng, vấn đề cấp bách nhất mà Nhật Bản phải đối mặt, một quốc đảo có 124 triệu dân, trong đó 29,1% từ 65 tuổi trở lên, là dân số đang già đi và thu hẹp nhanh chóng, một cuộc khủng hoảng nhân khẩu học mà giáo (GS) sư Tomoya Mori tin rằng đã bị đánh giá thấp giữa các nhà hoạch định chính sách của đất nước và rộng hơn là công chúng.
“Đã có rất nhiều cuộc thảo luận về hiện tượng nóng lên toàn cầu, và nhiều người coi đây là vấn đề, nhưng tôi tin rằng tình trạng suy giảm dân số ở Nhật Bản sẽ còn nghiêm trọng hơn và chưa có hành động nào được thực hiện để giải quyết vấn đề đó,” chuyên gia này khẳng định với The Japan Times.
GS Tomoya Mori tin rằng những người trẻ tuổi ở Nhật Bản nên bắt đầu tự tìm hiểu về thực tế giảm dân số.
Bằng cách tạo ra một mô hình thống kê dựa trên dữ liệu từ 50 năm qua và kết hợp các yếu tố bao gồm giảm dân số, xu hướng đô thị hóa và những thay đổi trong chi phí vận tải và liên lạc, GS Mori đã mô phỏng các thành phố của Nhật Bản sẽ trông như thế nào vào năm 2120 khi dân số dự kiến - trong điều kiện tồi tệ nhất - là giảm xuống chưa đến một phần ba so với hiện nay.
Dấu hiệu dân số già đi, giảm sút có thể thấy rõ nhất ở vùng nông thôn.
Trên thực tế, số lượng các căn nhà bị bỏ hoang tại Nhật Bản hiện đã tăng lên khoảng 9 triệu tính đến tháng 10 năm ngoái, theo một cuộc khảo sát của Bộ Nội vụ, tăng gấp đôi so với 4,48 triệu căn vào năm 1993. Và đến năm 2050, 744 trong số 1.729 đô thị của Nhật Bản có thể biến mất do mưa bão và dân số giảm mạnh, theo báo cáo do Hội đồng Chiến lược Dân số công bố vào cuối tháng 4.
Số lượng nhà bỏ hoang ở vùng nông thôn Nhật Bản đang gia tăng. Tuy nhiên, xu hướng này không chỉ giới hạn ở khu vực nông thôn.
Trong khi một hội đồng học giả và lãnh đạo doanh nghiệp đề xuất rằng Nhật Bản nên đặt mục tiêu có dân số ổn định ở mức 80 triệu người vào năm 2100 để duy trì tăng trưởng kinh tế, GS Mori nghi ngờ khả năng của viễn cảnh này. Ông cũng nhấn mạnh tình trạng suy giảm nhân khẩu học, tác động hiện rõ rệt nhất ở các vùng nông thôn của đất nước, sẽ dần dần biểu hiện ở các trung tâm đô thị.
Các dự báo dài hạn mới nhất của Viện Nghiên cứu An sinh Xã hội và Dân số Quốc gia đưa ra dân số ước tính khoảng 71 triệu, 50 triệu và 36 triệu vào năm 2120, theo các kịch bản mức sinh cao, trung bình và thấp. GS Mori tin rằng tỷ lệ sinh như hiện này, cùng với việc thiếu các sáng kiến hợp lý để đảo ngược xu hướng này có thể sẽ khiến dân số Nhật Bản ở mức thấp hơn so với ước tính.
Vào tháng 2, ông Mori đã hoàn thành một bài thảo luận có tựa đề “Sự trỗi dậy và sụp đổ của các thành phố trong bối cảnh dân số suy giảm và ma sát khoảng cách giảm dần: Trường hợp của Nhật Bản”, một nghiên cứu sử dụng mô hình thống kê không gian để dự báo sự phân bố dân số theo địa lý trong tương lai ở giai đoạn 1- cấp độ lưới km.
Mô hình này được phát triển dựa trên sự hội tụ kinh tế, một lý thuyết dự đoán rằng việc giảm chi phí vận chuyển do tiến bộ công nghệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập trung dân số vào các thành phố lớn hơn và ít hơn. Bài viết cũng xác định mỗi thành phố là một cụm đô thị có mật độ dân số ít nhất là 1.000 người trên 1 km2 và tổng dân số ít nhất là 10.000 người.
Trong bài báo, GS Mori cho biết vào năm 2020, Nhật Bản có 83 thành phố với ít nhất 100.000 dân và 21 thành phố với ít nhất 500.000 dân. Đến năm 2120, dựa trên kịch bản mức sinh trung bình, số lượng thành phố có ít nhất 100.000 và 500.000 dân sẽ lần lượt giảm xuống còn 49 và 11 và sẽ phân tán rộng rãi hơn. Con số này so với 42 và 6 trong kịch bản bi quan, mức sinh thấp.
Nói tóm lại, một nửa số thành phố của Nhật Bản có thể phải đối mặt với nguy cơ bị xóa sổ trong thế kỷ tới.