70 năm giải phóng Thủ đô

Nghỉ hưu trước tuổi được hưởng bao nhiêu phần trăm tỷ lệ lương hưu?

Thủy Trúc
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng nhân với mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.

Theo Điều 169, Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và nghị định số 135/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu thì kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu và tuổi hưởng lương hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình mỗi năm tăng thêm 3 tháng cho đến khi đạt 62 tuổi đối với lao động nam và tăng thêm 4 tháng cho đến khi đủ 60 tuổi đối với lao động nữ.

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa từ 5 - 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường. 
Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa từ 5 - 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường. 

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường nếu có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên và thuộc một trong các trường hợp sau:

Có đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTB&XH ban hành.

Có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021.

Có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021) từ đủ 15 năm trở lên; bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường nếu có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, và thêm các điều kiện: Có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò, bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Người lao động không bị giới hạn về tuổi đời khi có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, và thuộc một trong các trường hợp sau: Bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp; bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế ban hành.

Mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng nhân với mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.

Lao động nữ nghỉ hưu từ ngày 1/1/2018 trở đi, tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng được tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ mỗi năm đóng thêm thì tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

Tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nam nghỉ hưu từ năm 2022 trở đi được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội, tương ứng với 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Sau đó, cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội tăng thêm, người lao động được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

Trường hợp nghỉ hưu trước tuổi thì mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi bị giảm 2%.