Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, tập quán vì thế mỗi vùng miền lại có phẩm cách riêng hòa quyện vào cái chung.
Lối sống thanh lịch của người Hà Nội
Lâu nay, khi bàn về phẩm cách của người Hà Nội, ai cũng dẫn câu: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” hoặc “Người thanh tiếng nói cũng thanh/Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu”.
Làng Láng ở phía Tây kinh thành Thăng Long bên bờ sông Tô Lịch nổi tiếng về nghề trồng rau, đặc biệt là rau húng lừng danh thiên hạ vì thơm sâu, cay nhẹ. Trong ca dao cổ của làng có câu “Nhờ người thanh lịch gánh lên kinh kỳ”. Sao như vậy? Vì dân kinh kỳ thanh lịch nên gánh rau vào bán cũng phải chỉn chu, gọn gàng, ăn nói mềm mại, lịch sự. Lối sống thanh lịch là vượt qua bản năng đạt đến tầm lý tính; thanh lịch là sống có ý thức, ý thức với bản thân và xã hội.
Người Hà Nội có tình nhân ái, ca dao cổ có câu “Đông thành là mẹ là cha/ Đói cơm rách áo thì ra Đông thành". Đông thành là chợ lớn nhất Đại Việt nằm ở phía Đông kinh thành Thăng Long, dân tứ chiếng mất mùa thiếu ăn ra chợ sẽ được các bà, các cô bán hàng, đi chợ cho ăn kèm theo vài xu.
Trong “Vũ trung tùy bút”, cuốn sách ghi chép về xã hội Thăng Long giai đoạn “vua Lê, chúa Trịnh”, nhà Nho Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) vạch ra xấu xa của quan lại triều chính, ngợi ca lối sống trượng nghĩa, khoáng đạt, biết ăn, biết chơi, biết ứng xử của người Thăng Long. Về thú chơi hoa, ông viết: “Chơi hoa với người Thăng Long không chỉ là chuyện bình thường mà mượn hoa, cây cảnh để nói lên đạo làm người, nói cách khác chỉ cần nhìn người chơi hoa cũng có thể biết đạo lý của họ. Trong cách chơi vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân. Vậy nên mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác hoài bão cao cả”.
Trong “Đại Nam thực lục”, nói về người Thăng Long, vua Tự Đức đúc kết trong 6 chữ “Kiêu bạc, xa xỉ, phóng đãng”. Kiêu bạc là trọng chính, ghét tà, sống không bon chen. Xa xỉ là thích sự sang trọng; còn phóng đãng lâu nay bị hiểu sai, phóng đãng có nghĩa là khoáng đạt.
Lòng nhân ái ấy được thế hệ sau tiếp nối. Đời nhà Nguyễn, bà Lê Thị Mai, người phụ nữ góa bụa, đã xây nhà cho học trò các tỉnh về Hà Nội học trọ miễn phí, trò nghèo bà cho mua giấy bút, cấp gạo. Tiếng thơm lan vào kinh đô Huế, vua Tự Đức ban cho bà bốn chữ “Thiện tục khả phong”.
Đầu thế kỷ XX, bà Hoàng Thị Uyển (tức bà Cả Mọc), nghe tin ở đâu vỡ đê, bão lũ là bà vận động chị em buôn bán ở Hàng Đào, Hàng Ngang đóng góp tiền của mua thóc gạo đi cứu giúp. Bà lại lập ra trường mẫu giáo miễn phí chăm trẻ con nhà nghèo ở phố Hàng Đũa (nay là Ngô Sĩ Liên), xây nhà dưỡng lão ở Sóc Sơn đón các cụ già không nơi nương tựa về sống. Cảm động trước tấm lòng của bà, năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời bà lên Phủ Chủ tịch dùng trà, mong bà tiếp tục “thương lấy người nghèo nước mình”.
Cũng đầu thế kỷ XX, vợ chồng nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô cũng đau đáu tấm lòng lá lành đùm lá rách, người nghèo sống ở bãi sông Hồng chết không quan tài phải vùi dưới cát, bị nước sông dâng to cuốn đi, cảm thương, ông bà đã hỗ trợ hàng trăm quan tài, ai chết thì nhờ lý trưởng ngoài bãi cấp. Hà Nội có 5 nhà tư sản, gồm các ông: Bạch Thái Bưởi, Vũ Quang Huy, Đỗ Đình Đắc, Phạm Sỹ Hoạch và Long Ngổ góp tiền mua hàng trăm hécta đất làng Quỳnh Lôi làm nghĩa trang Hợp Thiện để người nghèo chết không có đất chôn có thể gửi xác ở đây. Các ông lại xây nhà quàn 125 Phùng Hưng (nay là Nhà tang lễ Thành phố).
Nhà tư sản Đỗ Đình Thiện đã bỏ tiền túi mua cả nhà in Tô Panh (số 5 phố Lê Duẩn) để in tiền cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Tháng 12/1946, Pháp tái chiếm Hà Nội, ông Đỗ Đình Thiện mua đồn điền ở Chi Nê (nay là xã Cổ Nghĩa, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình) chuyển nhà in lên đây (nay là Khu di tích lịch sử nhà máy in tiền). Đầu tháng 9/2024, cơn bão số 3 gây úng ngập ở ngoài đê sông Hồng, gây hậu quả vô cùng lớn ở nhiều tỉnh phía Bắc, người Hà Nội tùy điều kiện đã âm thầm góp vật chất cứu trợ. Thập niên 30 thế kỷ XX, phụ nữ Hà Nội đã dấy lên phong trào Tân thời, đây thực chất là đấu tranh chống tư tưởng phong kiến hủ lậu, đòi bình đẳng giới đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.
Tiếp nối truyền thống
Không chỉ ca dao, tục ngữ, sử sách nước nhà mà sách của các nhà truyền giáo, nhà buôn, du lịch thám hiểm, nhà báo phương Tây xuất bản từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX đã ghi chép lại những nét đẹp trong lối sống, cung cách ứng xử của người Thăng Long - Hà Nội.
Cuốn “Miêu tả vương quốc xứ Đàng Ngoài” (Description of the Kingdom of Tonqueen - xuất bản năm 1683) của Samuel Baron là chuyên khảo khá toàn diện về Đại Việt trong đó trữ lượng thông tin về lối sống Thăng Long rất phong phú và bổ ích.
Về uống rượu ở Thăng Long, Samuel Baron viết: “Vì lòng tự trọng nên rất ít khi thấy người uống rượu mặt đỏ gay ở ngoài đường hay bị quá say nằm vạ vật”. Khi đi thăm hỏi người ốm, họ không hỏi thẳng như “Bệnh tình của anh thế nào rồi” mà rất tế nhị “Dạo này anh ăn được mấy bát cơm”.
Một người phương Tây khác là Richard, ông là thầy tu, gốc Anh sống ở Thăng Long 18 năm trong thế kỷ XVIII, ông viết cuốn “Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài” (Histoire naturelle civile et politique du Tonquin - xuất bản năm 1778). Trong cuốn sách, ông kể về bữa ăn được một người khá giả ở kinh thành mời như sau: “Chủ nhà là người tao nhã, rất hiếu khách, nở nụ cười lịch sự đón tôi ở cửa. Ông ta đãi tôi món giò lụa, nó được xắt rất đều chứng tỏ sự kỹ càng và công bằng. Ăn xong chủ nhà lấy chiếc khăn trắng cho tôi lau miệng và cả chậu nước ấm để rửa tay”.
Cuốn “Ở Bắc Kỳ” (Au Tonkin) là tập hợp các bài báo mà Paul Bonnetain, phóng viên của tờ “Le Figaro” viết về Bắc Kỳ và Hà Nội cuối thế kỷ XIX. Trong bài “Dạo qua Hà Nội” có đoạn phản ánh cách ăn mặc tinh tế của phụ nữ: “Chúng tôi nhìn thấy những phụ nữ bên ngoài khoác một chiếc áo choàng màu tẻ nhạt, nhưng bên trong là những chiếc áo dài khoe rất kín đáo, chúng tôi đếm có đến mười sắc màu rực rỡ”. Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ khác trong các cuốn sách của các tác giả Phương Tây kể về lối sống của người Thăng Long - Hà Nội.
Phẩm cách tốt đẹp không tự nhiên mà có, nó là cả quá trình đằng đẵng. Trong gần 800 năm, Hà Nội là kinh đô, từ đời Lý đến Lê. Năm 1902 là Thủ đô của Liên bang Đông Dương; từ năm 1954 - 1975, Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và từ năm 1976 là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kinh đô, Thủ đô là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, bộ mặt của một quốc gia nên phẩm cách có nhiều cái riêng. Phẩm cách hình thành bởi nhiều yếu tố: đạo đức truyền thống, tôn giáo, luật pháp, điều kiện kinh tế… được điều chỉnh để đạt đến “chuẩn” trở thành nền tảng của xã hội. Những phẩm cách tốt đẹp được truyền lại cho thế hệ sau.
Lối sống, cung cách ứng xử là văn hóa mà văn hóa không phải bất biến, khi các yếu tố hình thành nó thay đổi thì nó cũng có thay đổi. Xã hội ngày nay khác xưa, không phủ nhận đâu đó cũng có phần xuống cấp bởi nhiều nguyên nhân. Nhưng nếu ở đủ lâu trên mảnh đất này vẫn có thể nhận ra trong lối sống của người Hà Nội là sành sỏi, can trường, khoáng đạt, cung cách ứng xử ý nhị, tế vi, thanh lịch, tao nhã. Những giá trị cốt lõi này như dòng hải lưu ấm chảy dưới lớp băng tuyết.