Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quảng Ngãi: Cần các giải pháp đột phá cho phát triển đô thị

Hà Phương
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi- Quảng Ngãi cần quan tâm đề ra các giải pháp đột phá cho phát triển đô thị để quá trình đô thị hóa cùng với công nghiệp hóa, gắn với xây dựng nông thôn mới sẽ thực sự trở thành động lực tăng trưởng và thúc đẩy tỉnh Quảng Ngãi phát triển bền vững.

Những kết quả đáng ghi nhận

Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, giai đoạn 2005 - 2021, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đã có những thành tựu đáng kể.

Từ một tỉnh nghèo, thuần nông, kinh tế xuất phát điểm thấp, ngân sách phụ thuộc sự hỗ trợ của Trung ương, cơ cấu kinh tế, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng lớn, quy mô và cơ cấu kinh tế có sự thay đổi lớn sau khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động năm 2009. Đến nay, sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 39 và 10 năm thực hiện Kết luận số 25, kinh tế của tỉnh phát triển khá, GRDP năm 2021 đạt mức 52, 925 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005 - 2021 là 10,92%/năm; GRDP bình quân đầu người năm 2021 đạt 3.360 USD (khoảng 78,28 triệu đồng/người)

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp. Công nghiệp, thương mại đều có mức tăng trưởng khá và công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh. Công nghiệp ngoài lọc dầu tăng trưởng khá và ngành công nghiệp tỉnh đã giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động của Nhà máy lọc dầu Dung Quất so với giai đoạn trước. 

Hoạt động sản xuất kinh doanh ở KKT Dung Quất.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ở KKT Dung Quất.

Cùng với Nhà máy lọc dầu Dung Quất, các dự án kinh tế lớn trên địa bàn KKT Dung Quất và các khu công nghiệp tỉnh đã làm tăng đáng kể giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh.

KKT Dung Quất trở thành một trong những khu kinh tế thành công nhất trong cả nước, giữ vai trò là hạt nhân tăng trưởng và động lực phát triển của tỉnh. Văn hóa xã hội tiếp tục phát triển. Chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.

Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 39 và Kết luận số 25 của Bộ Chính trị, việc phát triển của Quảng Ngãi vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Trong đó, tăng trưởng kinh tế và thu Ngân sách Nhà nước còn phụ thuộc nhiều vào Nhà máy lọc dầu Dung Quất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với trung bình của cả nước.

Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến, chế tạo phần lớn hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nông nghiệp phát triển chưa bền vững, dịch vụ có giá trị gia tăng cao chưa nhiều, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn hạn chế, hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế chưa cao. Chất lượng khám, chữa bệnh chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Đời sống người dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều khó khăn… 

Quảng Ngãi đặt mục tiêu đến năm 2030, tỉnh tập trung phát huy tiềm năng, lợi thế, nguồn lực và yếu tố con người hướng đến Quảng Ngãi trở thành tỉnh phát triển toàn diện, hài hòa và bền vững; có bộ máy quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Công nghiệp tiếp tục là động lực chủ đạo cho tăng trưởng gắn với phát triển không gian mới, đưa Quảng Ngãi trở thành một trong những trung tâm phát triển công nghiệp, dịch vụ hậu cần cảng biển của vùng trọng điểm kinh tế miền Trung và vùng duyên hải miền Trung. Dịch vụ phát triển đa dạng, dịch vụ du lịch được đẩy mạnh, lấy Lý Sơn làm hạt nhân phát triển du lịch của tỉnh, nông- lâm nghiệp phát triển ổn định, theo hướng an toàn, chất lượng. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện thuộc nhóm tiên tiến của cả nước …

Hướng tới năm 2030, Quảng Ngãi là một tỉnh công nghiệp với quy mô của hai ngành công nghiệp chủ lực là lọc hóa dầu và luyện kim đứng đầu cả nước. Các loại hình công nghiệp xanh, công nghiệp công nghệ cao dần hình thành tại các khu công nghiệp và cụm công nghiệp tập trung. Từng bước xây dựng được thương hiệu về các loại hình dịch vụ chất lượng cao …

Phát huy tiềm năng, lợi thế, nguồn lực

Tại Hội nghị Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW, ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi diễn ra vào ngày 27/6, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh khẳng định, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 39 và Kết luận số 25; vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành.

Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh.
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh.

“Những thành tựu đạt được cho thấy Nghị quyết 39 đã đi vào cuộc sống và sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết, diện mạo của Quảng Ngãi thay đổi rõ nét, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân ngày càng được nâng cao; điều này thể hiện sự năng động, sáng tạo và sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi”, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.

Đặc biệt, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh đề nghị tỉnh Quảng Ngãi cần quan tâm đề ra các giải pháp đột phá cho phát triển đô thị để quá trình đô thị hóa cùng với công nghiệp hóa, gắn với xây dựng nông thôn mới sẽ thực sự trở thành động lực tăng trưởng và thúc đẩy tỉnh Quảng Ngãi phát triển bền vững, góp phần mang lại diện mạo mới và đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân ngày càng được nâng cao. 

Bên cạnh đó, sớm hoàn thành nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, phù hợp với quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia, là công cụ quản lý và cơ sở cho việc thu hút đầu tư và quản lý phát triển tỉnh. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh theo hướng phát triển mạnh công nghiệp để tỉnh Quảng Ngãi sẽ trở thành trung tâm công nghiệp nặng, quy mô lớn của vùng với hạt nhân là Khu Kinh tế Dung Quất và lợi thế cảng nước sâu Dung Quất. Nâng cao hiệu quả của các ngành công nghiệp lọc - hóa dầu, cơ khí chế tạo luyện kim, công nghiệp phục vụ kinh tế biển…

Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong thực hiện công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh để xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh thực sự cởi mở, thân thiện, kiến tạo, minh bạch để thu hút được các tập đoàn, nhà đầu tư lớn, cộng đồng doanh nghiệp trong nước và ngoài nước đến tỉnh đầu tư. 

Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh yêu cầu tỉnh Quảng Ngãi chú trọng hơn nữa về liên kết vùng, phát huy vị thế, tiềm năng của tỉnh Quảng Ngãi trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vai trò cửa ngõ ra biển quan trọng của các tỉnh vùng Tây Nguyên và khu vực tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam; hành lang kinh tế đông tây và các liên kết khu vực của nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định cũng như của Quảng Ngãi với Tây Nguyên. Tập trung liên kết đầu tư cơ sở hạ tầng vùng biển, ven biển, hạ tầng kết nối vùng và liên vùng, liên kết phát triển logistic vùng, liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực, du lịch...