“Coọc Thủy Ba - Ma Trộ Rớ”
Từ Quốc lộ 1A nhìn về phía Tây là một ngọn núi có hình con voi phục nổi cao giữa đồng bằng với hình rõ nét của đầu, thân và vòi. Người dân vùng này còn gọi là núi Linh Sơn hay đơn giản hơn là Đồi 74, xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Ngay rìa chân núi Linh Sơn, nổi tiếng đến ngày nay là làng Thủy Ba (xã Vĩnh Thủy) - làng bắt cọp.
Theo những cụ cao niên ở Thủy Ba, thuở trước, rừng rậm kéo từ sườn Đông dãy Trường Sơn về tận đồng bằng và giáp cả Quốc lộ 1A ngày nay. Con người nơi đây không chỉ đối diện với thời tiết khắc nghiệt mà còn phải chống chọi với các loài thú dữ.
Đặc biệt, loài cọp trở thành nỗi ác mộng đối với những người dân sinh sống nơi này. Với bản năng của mãnh thú, chúng mò về làng bắt súc vật và cả con người. Nhiều nơi không dám gọi thẳng tên mà gọi chệch đi hay tên gọi kèm theo sự kính sợ như: Ông Khái, ông Ba mươi, ông Cọp.
Thế nhưng, qua câu chuyện của những cụ cao niên làng Thủy Ba chỉ xem chúng là loài ác thú với tên gọi gỏn gọn và ngang ngược của tiếng địa phương vùng này: “Coọc”. Và câu dân gian xưa “Coọc Thủy Ba, Ma Trộ Rớ” phần nào thể hiện được sự nổi tiếng về nhiều cọp và hung dữ như cọp ở Thủy Ba.
Chính từ cuộc sống khốc liệt phải thường xuyên chống chọi với các loại thú rừng hung dữ, người dân Thủy Ba đã sáng tạo ra nhiều cách săn bắt, xua đuổi chúng. Đặc biệt là cách tổ chức giăng ải, bủa lưới bắt sống cọp sát nhân.
Làng bắt cọp Thủy Ba cũng có ông tổ nghề đầy huyền mị. Theo các cụ cao niên, giữa khi loài cọp hung dữ tàn sát người dân thì một hôm có con quạ đen bay qua nhả xuống làng một mẩu xương người. Cảm thương, dân làng tổ chức chôn cất thì bất ngờ hồn phách người này nhập vào cốt đồng và xưng là Mai Quý Đông. Chính người này dạy cho người dân làng Thủy Ba cách bắt cọp. Dân làng bèn lập miếu thờ như ông “tổ nghề” và tổ chức cúng tế trước và sau mỗi cuộc đi săn với nghi thức lễ thượng vong, lễ hạ vong.
Thăm làng Thủy Ba bắt cọp
Trong căn nhà truyền thống của UBND xã Vĩnh Thủy, giờ chỉ còn lưu lại một đoạn tấm lưới từ cây sót, 1 cây nạng sắt và 1 chiếc sọt để gùi lưới tuổi đời cả trăm năm. Dù thời gian bào mòn nhưng tấm lưới từng vây bắt “chúa sơn lâm” đến giờ vẫn còn vô cùng chắc chắn.
Sót - loài cây mà cọp thích ăn quả trở thành chất liệu làm lưới. Ông Trần Đức Thọ (88 tuổi, làng Thủy Ba) kể lại: “Lúc đó, tôi còn quá nhỏ để vào đội bắt coọc nhưng được chứng kiến 2 lần khi coọc đã được đưa vào bẫy. Còn lại, sau này khi còn là thanh niên cũng 1 lần vào rừng bóc vỏ sót về làm bẫy khi có 1 con coọc lần mò về làng bắt người. Lưới sót vô cùng dẻo và chắc chắn, dù dưới nanh vuốt và hàm răng của coọc vẫn không bị đứt”.
Vỏ sót được dùng chày gỗ đập nát, ngâm vào nước vôi chừng 15 - 20 ngày khi chỉ còn trơ lại những sợi. Từ đây, sợi được bện lại to bằng ngón tay cái, săn chắc rồi được đan thành các tay lưới với mắt lưới rộng khoảng 20cm. Mỗi tay lưới dài khoảng 8m, cao 3,5m với 2 đòn khiêng nặng.
Thủa đó, làng Thủy Ba có 3 thôn: Đông, Tây, Hạ được tổ chức thành 20 xâu (nhóm) bắt cọp. Đàn ông từ 18 - 45 tuổi đều phải tham gia vào các xâu. Thường mỗi xâu bắt cọp được giao phụ trách 5 tay lưới và mỗi xâu còn mang theo lưỡi mác sắc nhọn và 2 nạng sắt có cán dài.
Khi thôn nào phát hiện có cọp về bắt súc vật, bắt người thì phải cấp tốc báo ngay cho chức sắc trong làng. “Sau ba hồi hiệu báo, các trưởng xâu tập hợp. Những thanh niên khỏe mạnh, tinh anh được cử đi lần theo dấu vết con coọc, tìm hiểu nơi ẩn mình mãnh thú gọi là nhóm “dọi dấu”. Lúc này, dân làng biết có cuộc săn coọc bắt đầu” - ông Trần Đức Thọ kể lại.
Theo đội “dọi dấu” các trưởng xâu tìm đến “ải” - nơi xác định điểm bủa vây. Tay lưới được dựng lên và nối liền nhau như một hàng rào vững chắc bởi những thanh niên lực lưỡng. Người phía sau tay lưới căng mắt nhìn về trước, tay lăm lăm mác, nạng sắt, tránh trường hợp cọp xông ra tấn công. Cứ thế, vừa phát cây, vừa giăng lưới, vòng vây khép lại dần.
Bất ngờ, bốn bên đồng thanh hô to: “Ba làng đứng dậy cho đều. Nghe tiếng ta reo hùm vọt dậy”, đáp lại là tiếng hô theo: “Reo…reo…reo”, tiếng trống thúc, tiếng thanh la vang vọng cả núi rừng. “Chúa sơn lâm” hoảng hốt, gầm lên vùng chạy ra khỏi nơi ẩn nấp nhưng khắp hướng là người, là tay lưới vững chắc, mác sắc sáng ngời. Một cái bẫy bằng gỗ dày kẹp vào nhau, phía ngoài có lưới bao bọc gọi là rọ kẹp được bố trí sẵn phía cuối ải. Cùng đường, “chúa sơn lâm” chui đầu vào bẫy và bị bắt sống.
Khánh vàng, khánh bạc Vua ban
Vào năm Nhâm Thìn (1832), ở phường Thiên Thọ (phía Tây kinh thành Huế) bỗng xuất hiện một con cọp sát nhân ngày đêm quấy phá, sát hại nhiều người cùng súc vật ở trong vùng. Sự tinh quái của con cọp dữ đã đe dọa đến những chuyến du ngoạn, săn bắn của các vua quan trong triều.
Nghe tiếng làng bắt cọp Thủy Ba, triều đình đã ra chiếu sức 400 thanh niên trai tráng làng Thủy Ba vào vây bắt. Trong những lần bên bếp lửa bập bùng canh nồi bánh chưng cuối năm, người già trong làng vẫn đọc bài vè kể chuyến bắt cọp năm xưa cho lũ trẻ nghe: “Mùng (mồng) sáu sắc lệnh Vua ra. Tư tờ xuống phủ đòi Thủy Ba đi liền. Đòi vô mần (làm) “ải” Thừa Thiên. Dữ ma độc nước không yên những là…”.
Trong câu chuyện, sau nhiều lần vượt núi, bằng rừng “dọi dấu”, giăng bẫy, dân Thủy Ba đã bắt sống con cọp sát nhân. Triều đình nhà Nguyễn vô cùng phấn khởi, trọng thưởng tiền và phong sắc cho những người tiêu biểu trong làng. Trong đó, ông Nguyễn Chẻng được Vua ban tặng trang sức “Khánh vàng”. Ông Cai Dẫn được ban “Khánh bạc”.
Năm 1830, Vua Minh Mạng cho xây dựng Hổ quyền nơi những con voi chiến đấu với cọp dữ. Làng Thủy Ba cũng là một trong những địa phương bắt sống cọp cung cấp cho đấu trường Hổ quyền.
Năm 1953, con cọp sát nhân nguy hiểm nhất trong vùng và cũng là con cọp cuối cùng sập bẫy của dân làng Thủy Ba. Tính từ xa xưa, Thủy Ba đã giăng ải, bắt được gần 100 con cọp, loại trừ mối hiểm thời đó cho nhân dân trong cả 3 tỉnh Bình Trị Thiên.
Truyền thống bắt cọp của người dân Thủy Ba đã lưu truyền qua nhiều thế hệ với nhiều niềm tự hào. Bởi không chỉ là quá trình chinh phục, chế ngự thiên nhiên của cha ông trong những năm mở cõi mà còn là tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái của người dân Thủy Ba. Ngay cổng chào xã Vĩnh Thủy vẫn ghi 2 câu đối đầy tự hào và oai hùng một thuở: “Thủy Ba nổi tiếng làng bắt cọp. Vĩnh Thủy lừng danh xã anh hùng”.