Đó là ý kiến được các chuyên gia đưa ra tại Hội thảo “Cơ chế, chính sách, giải pháp đảm bảo năng lượng bền vững tầm nhìn đến 2050” do Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) phối hợp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV)… tổ chức ngày 28/7.
Cung ứng điện gặp khó do nhiều dự án chậm tiến độ
Tại hội thảo, các chuyên gia chỉ ra vấn đề tồn tại của quy hoạch điện trước đây là việc có nhiều dự án chậm tiến độ, không thể đưa vào cung ứng điện, khiến cho việc đảm bảo an ninh năng lượng xuất hiện nhiều vấn đề.
Đại diện VEA, Ths. Nguyễn Anh Tuấn cho biết, việc chậm tiến độ của các dự án điện trong nhiều năm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khó khăn trong cung cấp điện thời gian qua, thậm chí có những dự án chậm hàng chục năm.
Đơn cử, với điện khí, tổng công suất nguồn tuabin khí đã được Điều chỉnh Quy hoạch điện VII đưa vào vận hành trong giai đoạn 2016-2030 là 26.640 MW tương ứng 20 dự án. Tuy nhiên, hầu hết các dự án quan trọng chậm tiến độ, như chuỗi khí-điện Lô B- Ô Môn (3.750 MW) mới có dự án Ô Môn I đưa vào hoạt động từ năm 2009, dự kiến đưa tuabin khí Ô Môn III từ năm 2012, sau Điều chỉnh Quy hoạch điện VII lùi đến 2020. Dự án này đến này chưa giải quyết xong thủ tục vay vốn ODA từ Nhật Bản.
Ngoài ra có 37 dự án nhiệt điện than với tổng công suất 35.112 MW đã phê duyệt trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh dự kiến vận hành trong giai đoạn 2016-2030. Nhưng kiểm lại có hàng chục dự án chậm tiến độ, như: Nhiệt điện Sông Hậu I, Thái Bình II, Long Phú I, Na Dương II, An Khánh Bắc Giang, Quảng Trạch I, Nam Định I BOT…
Còn với điện mặt trời, do các dự án phát triển quá “nóng” để kịp hưởng cơ chế giá ưu đãi đã gây nghẽn mạch nhiều đường dây truyền tải, phải cắt giảm năng lượng, cùng một số dự án sai phạm do chưa hoàn thành đủ các thủ tục đầu tư xây dựng… Nhiều dự án điện mặt trời đã được bổ sung trong điều chỉnh Quy hoạch và chưa triển khai xây dựng, nhưng Chính phủ đã quyết định tạm dừng lại để rà soát. Vì vậy, từ nay đến năm 2030 chưa có thêm các nguồn điện mặt trời tập trung được đưa vào hệ thống.
“Giai đoạn trên 10 năm phát triển nguồn điện vừa qua, có thể thấy các dự án điện chậm tiến độ do khó khăn trong huy động nguồn vốn, vướng mắc trong quy định pháp. Cùng đó là sự chỉ đạo, điều hành từ các bộ ngành cũng chưa quyết liệt, chưa sử dụng triệt để quyền lực nhà nước nhằm thúc đẩy các dự án bị vướng mắc, chậm trễ” – vị này nhấn mạnh.
Lộ trình cụ thể, giám sát chặt
Các ý kiến tại hội thảo cho hay, định hướng phát triển điện mặt trời tự dùng trong Quy hoạch điện VIII là rất đúng đắn, nhưng cần cụ thể khái niệm, quy mô phát triển, tính liên kết ra sao, đặc biệt là ở trong các khu, cụm công nghiệp… Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc vấn đề chủ quyền quốc gia trước tình trạng có thể xảy ra mua bán dự án với các công ty nước ngoài…
Bàn về vấn đề, GS. Lê Chí Hiệp (Trường Đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh) thẳng thắn, nhìn lại Quy hoạch điện VII và VII hiệu chỉnh rõ ràng có tình trạng chỉ nói nhưng không làm, thậm chí phá vỡ quy hoạch. Do đó, cán cân cung cầu điện bị phá vỡ, dẫn dến phải cắt giảm công suất, lưới điện không đủ năng lực truyền tải...
Bày tỏ ủng hộ quan điểm trong Quy hoạch điện VIII, nhưng GS. Lê Chí Hiệp đề nghị, để tránh lặp lại như quy hoạch trước, cần xây dựng lộ trình triển khai cụ thể, từng giai đoạn. Hiện Bộ Công Thương đã đưa ra bản lộ trình thực hiện nhưng vẫn chưa rõ ràng.
“Muốn Quy hoạch điện VIII có hiệu quả cần đưa khung thời gian cụ thể, số liệu, khu vực, lộ trình triển khai theo khung thời gian với từng loại hình năng lượng và phải có kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ” - GS Lê Chí Hiệp nói.
Đồng quan điểm, Ths. Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, để có thể thực hiện Quy hoạch điện VIII hiệu quả, sau khi Thủ tướng phê duyệt, Bộ Công Thương nên thiết lập kế hoạch chi tiết 5 năm tới để triển khai phân quy mô các nguồn năng lượng tái tạo từ vùng tới các tỉnh; đảm bảo sớm lựa chọn được chủ đầu tư các dự án quan trọng cũng như các dự án điện sạch; giám sát việc thực hiện đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện đồng bộ…
Đặc biệt, với các dự án nguồn điện quan trọng quốc gia, cần thiết có chế độ giám sát nghiêm ngặt từ Chính phủ, Bộ Công Thương không để xảy ra tình trạng dự án chậm nhiều năm. Riêng với chuỗi khí - điện Lô B- Ô Môn và Cá Voi Xanh, các cấp thẩm quyền cần vào cuộc để chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc nhằm tránh chậm trễ thêm nguồn điện khí nội địa, tăng cường an ninh và giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Với các dự án điện khí hóa lỏng LNG để thay thế điện than, giảm phát thải CO2, Ths. Tuấn cho rằng, cần thiết sớm lập kế hoạch chi tiết về địa điểm, chọn chủ đầu tư; Bộ công Thương chỉ đạo, hỗ trợ cũng như giám sát tối đa chủ đầu tư trong quá trình đầu tư; sớm sàng lọc, loại bỏ các chủ đầu tư kém năng lực hoặc triển khai kiểu cầm chừng. Với nhu cầu phát triển thêm gần 20.000MW điện khí LNG từ nay đến năm 2030, nếu không thực hiện tốt cả việc chỉ đạo, hỗ trợ lẫn giám sát, sẽ không thể thực hiện.
Ngoài ra, Chính phủ nên giao Bộ Công Thương và các bộ ngành liên quan xây dựng cơ chế đấu thầu để đầu tư các dự án điện năng lượng tái tạo. Từ đó, chọn được các nhà thầu có đủ năng lực về vốn - tài chính, đội ngũ kỹ thuật, dẫn tới giảm chi phí, đảm bảo chất lượng, đúng tiến độ các dự án nêu trên.
“Các dự án điện gió ngoài khơi cần thời gian đầu tư xây dựng từ 6 - 8 năm mới hoàn thành, nếu không sớm chọn được dự án và chủ đầu tư, sẽ rất khó thực hiện được quy mô điện gió ngoài khơi đến năm 2030 là 6.000MW…” – vị này nói.