"Sức mạnh mềm" từ văn hóa Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam

Liên Hà
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Câu chuyện về làn sóng Hallyu đã trở thành một hiện tượng toàn cầu xuyên lục địa, chứ không phải sự nổi lên nhất thời.

"Gangnam Style" của Psy là video YouTube đầu tiên đạt một tỷ lượt xem. "Dynamite" của BTS năm 2020 đã trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100. "Ký sinh trùng" của Bong Joon-ho đã giành được bốn giải Oscar lớn. Ở Ấn Độ, các bộ phim truyền hình Hàn Quốc chỉ mới năm 2020 đã chứng kiến mức tăng trưởng khổng lồ 370% trên Netflix và ứng dụng học ngôn ngữ Duolingo khẳng định tiếng Hàn hiện là ngôn ngữ phát triển nhanh thứ 2 trên thế giới.

“Văn hóa là sức mạnh"

Nhóm nhạc BTS (Hàn Quốc) thăm Nhà Trắng hồi tháng 5/2022. Ảnh: Getty
Nhóm nhạc BTS (Hàn Quốc) thăm Nhà Trắng hồi tháng 5/2022. Ảnh: Getty

Theo Korea Foundation, số lượng thành viên của các câu lạc bộ người hâm mộ Hallyu ("làn sóng văn hóa Hàn Quốc") ở 109 quốc gia trên toàn thế giới, ngoại trừ Hàn Quốc, đã vượt qua con số 100 triệu. Câu chuyện này chứng minh làn sóng Hallyu đã trở thành một hiện tượng toàn cầu xuyên lục địa, chứ không phải sự nổi lên nhất thời.

Đây là chiến thắng của “sức mạnh mềm” - gây ảnh hưởng tích cực đến mức những người khác ngưỡng mộ các giá trị của bạn và khao khát noi gương bạn. Theo nhà khoa học chính trị Mỹ Joseph Nye, người đã đặt ra thuật ngữ này, văn hóa là tài sản chính của quyền lực mềm. Hay như một cựu tổng thống Hàn Quốc đã nói, trong thế kỷ 21, văn hóa là sức mạnh.

Hàn Quốc đang trên đà phát triển trong những năm gần đây — đạt vị trí thứ 2 trong Khảo sát về Quyền lực mềm của Monocle năm 2020.

Giải mã làn sóng Hallyu

Trong khi tình yêu của K-drama và K-pop theo truyền thống chỉ giới hạn ở châu Á, thì chính rapper Psy đã đưa làn sóng Hallyu ra toàn cầu với bản hit năm 2012 “Gangnam Style”, thể hiện “điệu nhảy ngựa” mang tính biểu tượng của anh. 

Một cảnh trích đoạn trong bộ phim Ký sinh trùng (Parasite) của Hàn Quốc. 
Một cảnh trích đoạn trong bộ phim Ký sinh trùng (Parasite) của Hàn Quốc. 

Theo Lee Areum, một giám đốc điều hành ngành giải trí Hàn Quốc  từng hoạt động tại JYP, một trong những công ty Big Four giải trí (cùng với SM, YG và HYBE), mặc dù sự thống trị thế giới của văn hóa Hàn Quốc dường như đã xảy ra chỉ trong một đêm, đó thực sự là kết quả của một số yếu tố cùng phát triển trong 20 năm qua.

Cụ thể đó là sự phổ biến của các công cụ kỹ thuật số và internet, kết hợp với sự ra đời của YouTube, các nền tảng phát nhạc trực tuyến như Spotify và những người chơi OTT hàng đầu như Apple, Amazon, Disney + và Netflix, những công ty đã giới thiệu phim truyền hình K đến các hộ gia đình trên toàn thế giới. “Cuộc cách mạng trong mạng lưới phân phối nội dung đã phá vỡ các rào cản đối với nội dung của Hàn Quốc và giúp toàn cầu hóa nội dung đó.”

Chẳng hạn, YouTube không chỉ cho phép mọi người trên khắp thế giới nghe nhạc qua video, nó còn tạo ra thu nhập từ quảng cáo và bằng cách toàn cầu hóa sự công nhận tên tuổi, cho phép các nghệ sĩ lưu diễn nước ngoài. Điều này tạo ra các vòng tròn và giúp các nhà điều hành giải trí dễ dàng thu hút được các nhà tài trợ của công ty và các cơ hội quảng cáo khác.

Ngoài tốc độ của công nghệ mới và mạng lưới phân phối, việc thích nghi nhanh lẹ với việc thay đổi khẩu vị của người dân công chúng là một thách thức. Với tư duy tiên phong đó, người làm công nghiệp văn hóa ở Hàn Quốc luôn phải thử nghiệm những điều mới — "điều này có thể giải thích tại sao Hàn Quốc tìm cách mở rộng ra thế giới thay vì chỉ tập trung vào thị trường trong nước.”

“Hàn Quốc tạo ra nội dung mà mọi người trên khắp thế giới có thể kết nối, với các chủ đề cảm xúc phổ quát,” bà Lee Areum cho biết thêm. Vì vậy, K-pop pha trộn các thể loại âm nhạc quen thuộc như hip-hop, rock, R&B, jazz và disco với lời bài hát bao hàm về tình yêu và sự chấp nhận. Ngay cả với nội dung Hàn Quốc sâu rộng hơn — chẳng hạn như Ký sinh trùng, phim hay nhất đoạt giải Oscar năm 2020,  hay loạt phim Squid Game năm 2021 của Netflix — chủ đề về bất bình đẳng giàu nghèo hoặc xung đột giữa lựa chọn cá nhân và cộng đồng, đều gây được tiếng vang với khán giả toàn cầu đang đấu tranh với những vấn đề tương tự .

Tiền tố hấp dẫn giúp "xuất khẩu văn hóa"

Tiền tố K ngày càng được áp dụng cho mọi thứ, không chỉ nhạc Pop và phim truyền hình mà cả các sản phẩm làm đẹp và đồ ăn (từ kim chi ngâm chua đến cơm bibimbap, năm 2021 được coi là năm mà ẩm thực Hàn Quốc trở thành xu hướng, với gần 1/3 người được khảo sát trên toàn thế giới cho biết thực phẩm Hàn Quốc bây giờ rất phổ biến ở đất nước của họ).

Nhóm nhạc Black Pink. Ảnh: Sabah.
Nhóm nhạc Black Pink. Ảnh: Sabah.

Theo Foreign Affairs, xuất khẩu văn hóa Hàn Quốc (bao gồm trò chơi máy tính, buổi hòa nhạc và mỹ phẩm) chiếm 12,3 tỷ USD vào năm 2019 (tăng từ 189 triệu USD năm 1998). Chỉ riêng BTS đã được cho là đã tạo ra 3,5 tỷ USD mỗi năm trong hoạt động kinh tế, với ước tính 7% tổng số khách du lịch nói rằng họ đến Hàn Quốc chỉ vì một nhóm nhạc đó.

Bên cạnh những tác động lan tỏa sức mạnh mềm có thể mang lại, văn hóa Hàn Quốc cũng đang tạo ra tác động xã hội tích cực. Ví dụ, BTS đã huy động lực lượng người hâm mộ trung thành mãnh liệt - được gọi là ARMY - để khuyến khích mọi thứ, từ tiêm chủng đến bỏ phiếu. Người hâm mộ BTS ở Philippines đã gây quỹ cứu trợ trẻ em Palestine, trong khi những người khác ủng hộ phong trào Black Lives Matter ở Mỹ. ARMY đã trở thành một tổ chức từ thiện đã đăng ký, tận dụng mạng lưới toàn cầu mạnh mẽ của mình với mục đích trở thành lực lượng vì những điều tốt đẹp trên thế giới .

“Người hâm mộ K-pop đang tích cực làm việc cùng nhau vì các mục tiêu xã hội, chính trị và môi trường. Trong một số trường hợp, quyền lực của những người hâm mộ này lớn hơn bất kỳ quyền lực chính trị hay xã hội chính thức nào,” bà Lee cho biết.

Kinh nghiệm cho Việt Nam?

Hallyu không chỉ đến một cách tình cờ. Theo CEO Lee Areum, để nhân rộng được những mô hình tương tự và đạt được những thành tựu như Hàn Quốc trên quy mô toàn cầu cần có nỗ lực phối hợp của nhiều bên khác nhau. Đó là mồ hôi của nhiều nghệ sĩ, nhà đầu tư, công ty sản xuất K-pop và cả chính quyền. Khả năng đón sóng thị hiếu của công chúng cũng vô cùng quan trọng. "Cuối cùng thì công chúng mới là bên quyết định," bà nói.

Bên cạnh đó, để ngành công nghiệp văn hóa ở bất cứ đâu phát triển bền vững thì vấn đề sở hữu trí tuệ (IP) luôn cần đặt lên hàng đầu và đây cũng là mục tiêu của các công ty giải trí Hàn Quốc. “Sở hữu trí tuệ là tài sản và là vũ khí có thể triển khai vĩnh viễn,” bà Lee Areum cho biết. Các chủ sở hữu các sản phẩm đã đăng ký sở hữu trí tuệ thành công có thể đa dạng hóa thành các danh mục nội dung khác nhau bằng cách sử dụng cùng một nhãn hiệu, giống như Disney đã làm. 

Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng tiếp và làm việc với Bộ trưởng Bộ VHTTDL Hàn Quốc Park Bo Gyoon trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol tới Việt Nam tháng 6/2023. Ảnh: Bộ VHTTDL
Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng tiếp và làm việc với Bộ trưởng Bộ VHTTDL Hàn Quốc Park Bo Gyoon trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol tới Việt Nam tháng 6/2023. Ảnh: Bộ VHTTDL

Tại Việt Nam, công nghiệp văn hóa đang được xây dựng tập trung cho 12 lĩnh vực dựa trên thực tế, trong đó cũng có phim ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thủ công mỹ nghệ, thời trang, xuất bản, mỹ thuật.... và du lịch văn hóa, bao gồm ẩm thực, du lịch di sản…

Các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo đang có đóng góp mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt Nam với 8,081 tỷ USD, chiếm 3,61% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2018 và mang lại công việc cho hơn 3 triệu lao động, chiếm 6,1% tổng lao động có việc làm trên cả nước vào năm 2019. 

Theo nhận định trong ngành, khả năng phát triển tổng thể ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam vô cùng sáng lạn.

Theo cựu Giám đốc Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc Suk Jin Young cho biết, thị trường trong nước với tiềm năng phát triển lớn dựa trên quy mô dân số khoảng 100 triệu người và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam là tiền đề cho sự phát triển. Trong đó thu nhập của người dân Việt Nam tăng lên đã khiến chi tiêu dùng cho các sản phẩm văn hóa cũng theo đó tăng lên một cách tự nhiên.

"Quá trình doanh nghiệp hóa trong ngành công nghiệp văn hóa theo hình thức tập trung vốn dựa vào thị trường trong nước vững chắc như vậy có thể phát triển ra nước ngoài bằng cách kết hợp với nguồn tài nguyên về văn hóa rất phong phú và nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam. Do lộ trình này rất tương đồng với quá trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Hàn Quốc, nên đây là một dự đoán rất thực tế," ông Suk Jin Young cho biết.

Việt Nam cũng đang xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và trong quá trình đó, luôn mong muốn học tập các kinh nghiệm quý báu về quá trình xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đặc biệt từ các đối tác đã rất thành công như Hàn Quốc. 

Trong chuyến thăm Việt Nam vừa qua, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch Hàn Quốc Park Bo Gyoon đã khẳng định không chỉ 30 năm qua, mà quan hệ hợp tác giữa hai nước sẽ còn tiếp tục phát triển vượt bậc, trong đó văn hóa luôn là nền móng vững chắc trong mối quan hệ này.

“Việt Nam – Hàn Quốc đang đi chung trên một "con thuyền" văn hóa. Hàn Quốc luôn quan sát và nhận thấy rõ Việt Nam đang nỗ lực phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự phát triển về văn hóa – kinh tế của Việt Nam cũng chính là tín hiệu đáng mừng với Hàn Quốc”, Bộ trưởng Park Bo Gyoon chia sẻ.