Chúc mừng năm mới

Tết Năm mới của đồng bào Mường: bản sắc riêng độc đáo

Tâm Hiền
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Trước thềm Xuân mới, chúng tôi chọn Mường Vang, một trong 4 mường lớn nhất, Bi, Vang, Thàng, Động của cộng đồng dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình để tìm hiểu về Tết.

Non nước xứ Mường

Mường Vang ngày nay là huyện Lạc Sơn. Thị trấn Vụ Bản, trung tâm của huyện phố xá đông đúc, không khác gì miền xuôi, dù cư dân ở đây vẫn là người Mường chiếm đa số.

Từ Vụ Bản chúng tôi ngược lên các xã vùng cao, điểm đến là xã Ngọc Lâu, qua xã Ngọc Sơn, xã Tự Do, đường tốt nhưng càng lên cao càng khó đi hơn, khác hẳn với các xã vùng thấp. Điểm thú vị đầu tiên là càng lên cao, nhà sàn càng nhiều, những ngôi nhà sàn đẹp mắt thấp thoáng trong những tán lá xanh tươi gợi cảm giác yên bình, xưa cũ, khác hẳn với các xã vùng thấp, như Yên Nghiệp, Ân Nghĩa, Nhân Nghĩa… Ngồi trên xe ngắm nhìn những rặng núi xa gần, những cánh đồng mía tím, nương ngô, hồ nước, làng bản phía dưới, chúng tôi như được xem một cuốn phim ngắn về non nước xứ Mường.

Phụ nữ Mường biểu diễn chiêng. Ảnh: Trọng Đạt
Phụ nữ Mường biểu diễn chiêng. Ảnh: Trọng Đạt

Ngôi nhà sàn của thầy mo (tiếng Mường là pộ mo) Bùi Văn Vinh (ở xã Ngọc Lâu) mới làm nhưng vẫn nguyên vẹn nét kiến trúc nhà sàn Mường, chỉ khác là gầm sàn đã có tường bao, bên trong lát gạch kê bộ bàn ghế tiếp khách. Nhà sàn ở đây thường có hai cầu thang ở hai phía đầu nhà, cầu thang lớn là lối đi chính, cầu thang phụ cho chị em phụ nữ lên xuống, tiện cho việc nấu bếp…

Trên nhà sàn lát gỗ phẳng phiu; các cửa sổ, ở đây gọi là cửa voóng, mở đến sát mặt sàn, mang đến cho ngôi nhà vẻ sạch sẽ, thoáng đãng. Ngồi bên cửa voóng nhìn ra phía trước, ngay lối cổng mà chúng tôi vừa qua, là một cây đào rất lớn, mọc ngay bên bờ của những thửa ruộng. Chủ nhà nói rằng, ít ngày nữa, sát Tết đào sẽ trổ hoa, hoa đào phai, nở cả nửa tháng, đẹp lắm… Chúng tôi trầm trồ hình dung một cây hoa đào kiêu sa khoe sắc mà dân thành phố ước ao, chủ nhà vui vẻ nói: Tết mời các nhà báo lên chơi uống rượu ngắm hoa đào nhé. Hoa đào trên này nhiều lắm, hết cây này đến cây khác, kéo dài cả tháng Giêng.

Một lễ cúng cầu mát của người Mường. Ảnh: Hải Ly
Một lễ cúng cầu mát của người Mường. Ảnh: Hải Ly

Hỏi chuyện Tết với gia đình thầy mo, chúng tôi hiểu rằng, truyền thống người Mường không có nhiều Tết như người Kinh, họ chỉ có Tết Năm mới, không gọi là Tết Nguyên đán. Người Mường cũng rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên nhưng họ không giỗ hàng năm mà chỉ cúng trong ngày Tết Năm mới. Họ cũng không cúng ngày Rằm, mùng Một hàng tháng. Vì thế, ngày Tết là hội tụ trong đó tất cả lòng biết ơn tổ tiên, cũng là dịp phô diễn những nét văn hóa giàu bản sắc của bà con.

Cũng như các dân tộc khác, để chuẩn bị đón Tết, nhà ai cũng trang hoàng, dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ, khang trang và nhất định mỗi nhà đều phải trồng một cây nêu ở trước sân. Tết Năm mới bắt đầu tính từ ngày 27 tháng Chạp đến mùng 7 tháng Giêng.

Ngày 27, đàn ông trong nhà đi dọn dẹp, sửa sang phần mộ tổ tiên, còn đàn bà con gái ở nhà mang bát đĩa, xoong nồi, lá dong… ra sông suối rửa cho sạch sẽ. Những ngày sau nhiều gia đình mổ lợn, gói bánh chưng, bánh ống. Bánh ống là loại bánh chưng gói dài chừng hơn một gang tay.

Trò đánh mảng ở đình Khói.
Trò đánh mảng ở đình Khói.

Thu lại một nếp, xếp lại một món

Tết dài nhưng thông thường bà con ở đây chỉ cúng bánh vào chiều 30 và sáng mùng Một. Lễ cúng Tết theo truyền thống phải mời thầy cúng đến thực hành nghi lễ. Hỏi chuyện này, thầy mo Vinh cho hay: “Phong tục như vậy nên ngày Tết chúng tôi bận lắm. Dù cúng Tết khá đơn giản, không khó như các lễ khác, nhưng nhà ai cũng mời nên phải sắp xếp thời gian thật khéo để nhà nào cũng được tốt đẹp”.

Thầy Vinh cho biết, mỗi dòng họ, mỗi gia đình lại có nghi lễ khác nhau, cầu kỳ cẩn thận nhất ở địa phương là dòng họ Quách. Họ mời thầy mo đến cúng 3 lần, lần đầu vào tối 30 Tết, mời các cụ về. Sáng mùng Một cúng mời các cụ ăn Tết và buổi chiều mùng Một cúng tiễn các cụ đi. Những nhà nguồn gốc bình dân thì thường cúng 2 lần, sáng và chiều mùng Một, còn chiều ngày 30 họ tự cúng.

Khác với người Kinh thờ chung tổ tiên các đời, người Mường cúng đích danh từng vị, thường là có mâm cúng bố mẹ, mâm cúng ông bà, mâm cúng cụ, đặc biệt là có mâm cúng bố mẹ của bà chủ nhà. Mâm cúng mấy vị thì có từng đó bát đũa như với người sống.

Ngoài các mâm cúng tổ tiên, mỗi gia đình còn có mâm cúng các vị thần, cũng bày trên sàn nhà theo một chuẩn mực chung. Có gia đình còn bày một ít thịt, muối, bánh chưng, cơm vào một cái nong cho vía trâu bò cũng được ăn Tết. Các dụng cụ lao động như cuốc, cày cũng được dính một hòn cơm với hàm ý như vậy.

Mâm cúng ngày Tết.
Mâm cúng ngày Tết.

Mâm cỗ cúng ngày mùng Một tùy điều kiện của mỗi gia đình nhưng thông thường sẽ có trầu cau, bát nước, cỗ đủ các miếng trong con lợn, từ miếng thịt đến các miếng nội tạng được bày đẹp mắt trên mâm đã lót lá chuối, đây là cỗ lá của đồng bào Mường. Bên cạnh đó là xôi, bánh chưng, bánh ống, cơm, rượu, có khi có thịt gà luộc, cá nướng vẫn để nguyên từng kẹp… Ngoài ra là tiền vàng âm phủ, và nhất định có những xấp vải khổ nhỏ mà bà con dệt thủ công, dâng cúng để tổ tiên may quần áo.

Khi lễ vật đã đủ đầy thì thắp hương để thầy cúng làm lễ. Con cháu vái lạy rồi ngồi yên lặng để thầy đọc lời khấn. Tìm hiểu lời khấn, một thầy mo ở xã Ngọc Sơn cho hay, bắt đầu là lời mời các cụ ăn trầu, nói chuyện với nhau, sau đó mời các cụ ăn bánh, uống rượu, rồi mời từng món một, gọi là “thu lại một nếp, xếp lại một món”. Cứ hết một tuần rượu con cháu lại cúi lạy một lần. Đi kèm với những lời mời là lời cầu xin các vị phù hộ cho con cháu… Sau mười tuần rượu thì lễ cúng hoàn tất, lời khấn khi đó là: “Cơm ăn không hết dậy thu vào sọt/ Rượu uống không hết dậy thu vào vò/ Thu hết lễ lạt con cháu dâng cho/ Mang về biếu bố mẹ trong chốn mường ma”… Con cháu xin được “rút mâm lui, lùi mâm xuống” để hưởng lộc của các cụ.

Khi đó các mâm cỗ được bưng xuống, sắp xếp lại, bổ sung thêm các món không cúng như nộm, rau đắng, rau thơm, nem… để cả nhà cùng nhau ăn cỗ Tết, trong niềm vui đoàn tụ.

Như vậy, có nơi thì để nguyên các mâm cúng đến chiều mới làm lễ tạ. Có nơi thì 3 lần 3 cỗ khác nhau. Dù có khác nhau đôi chút nhưng lễ nghi cúng bái chỉ trong ngày mùng Một là hoàn tất, những ngày sau đó, người Mường chỉ còn đi chơi Tết, vui Xuân.

Thầy mo Bùi Văn Vinh.
Thầy mo Bùi Văn Vinh.

Lội qua 10 áng mây…

Ở các xã vùng cao Lạc Sơn, những phong tục truyền thống dường như được bảo tồn nhiều hơn so với các xã vùng thấp, có đường quốc lộ 12B chạy qua. Chúng tôi đến thăm gia đình ông bà Bùi Văn Nghi, Bùi Thị Nhi ở xóm Búm, xã Ân Nghĩa. Ngôi nhà sàn mới được xây dựng lại bằng gạch ngói, bê tông. Gầm sàn không còn thấp như nhà sàn xưa mà cao đến 3m, cổng nhà rộng có cửa sắt đóng mở để ô tô ra vào được. Khu vực này hầu hết là nhà sàn kiểu mới như vậy. Có nhiều gia đình xây nhà kiểu người Kinh, bỏ hẳn nhà sàn.

Hỏi về chuyện Tết, bà Bùi Thị Nhi cho biết, ngày Tết gia đình bà không mời thầy mo đến cúng vì nhiều năm phải chờ đợi rất lâu. Bây giờ bà đã học được cách cúng các cụ, không được như các thầy mo nhưng cũng tạm đủ theo phong tục. Cỗ Tết nhà bà năm nào cũng có thịt lợn, bánh chưng, xôi, canh miến… Nhà bà cúng 5 mâm và để thêm một mâm trầu nước, thuốc lào, bánh kẹo… để các cụ ăn uống xong thì uống nước, hút thuốc. Bà không bày cỗ trên lá chuối mà bày vào đĩa đặt trên mâm gỗ. Vậy là cỗ lá đã không còn, dù các món ăn không thay đổi. Ở đây cũng còn rất ít nhà dựng cây nêu như các xã vùng cao.

Về chuyện ngày Tết có mâm cúng bố mẹ vợ, ông chủ nhà cho rằng, đấy là phong tục từ xưa, nên cứ theo nền nếp mà làm. Ông thấy phong tục ấy cũng đẹp, vì người vợ có vai trò rất lớn trong nhà, mấy ngày Tết lại lo sắm sửa, làm cỗ cúng ông bà, bố mẹ chồng, chắc hẳn cũng chạnh lòng nhớ đến bố mẹ mình. Có mâm cúng ông bà ngoại thì tình nghĩa thêm trọn vẹn, người vợ cũng an lòng, cũng vui hơn nên phải giữ phong tục này… Ông còn cho biết, trước Tết, ông đã mang lễ về nhà bố vợ cặp gà một trống, một mái, mấy cân gạo nếp và chai rượu.

“Lớp trẻ thì có thay đổi đấy, có khi là bánh, rượu và tiền, nhưng chúng tôi vẫn theo nếp xưa” - ông Nghi nói.

Ngày Tết với người Mường, nhà nào cũng trưng 2 cây mía tím mập mạp, giữ nguyên cả lá, buộc vào 2 cây cột hoặc 2 bên bàn thờ. Người dân nơi đây cho rằng, cây mía vốn có sức sống mạnh mẽ, sinh sôi rất dễ dàng. Chỉ một đốt mía trồng xuống đất là sẽ thành một cây mía mới, khi cây bị mưa gió làm cho ngã đổ, trên các đốt lại nảy sinh các chồi mới, nên bày 2 cây mía trong nhà vào dịp đầu năm là mong ước một năm gia đình mạnh khỏe, cây trái, vật nuôi, tài sản cũng sinh sôi, nảy nở.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, người Mường có những cây thiêng. Trước hết là cây si. Si được ví như một vị thần, cội nguồn của sự sống. Theo sử thi Đẻ đất, đẻ nước, con người được sinh ra từ rễ của cây si. Cây si đẻ ra đất, nước, trời biển và muôn loài. Tiếp đến là cây mía và cây lúa cũng là giống cây có hồn nên được thờ cúng. Cây mía trong tín ngưỡng của người Mường là biểu tượng về sự sinh sôi, trưng cây mía mang ý nghĩa cầu mong sức khỏe và sự trường thọ. Vậy là cách giải thích có thể khác nhau đôi chút nhưng niềm tin về tính thiêng cây mía khá đồng nhất. Ngày Tết trong các gia đình người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng có tục đặt hai cây mía ở bên cạnh bàn thờ, có lẽ cũng phản ánh mối liên hệ xa xưa giữa Việt và Mường.

Bà con ở Ân Nghĩa cho hay, chợ mía tím ngã ba đường Hồ Chí Minh với quốc lộ 12B luôn tấp nập khách mua mang đi khắp các thị trường, nhất là trong dịp Tết. Nhiều hộ gia đình ở đây mỗi năm thu về hàng trăm triệu đồng tiền mía. 

Theo phong tục, ngày Tết trẻ em rủ nhau mang cồng đi hát sắc bùa rộn ràng cả bản làng. Sắc bùa hay xéc bùa nghĩa là xách cồng. Trẻ em xách cồng và hát những lời chúc mừng, khiến các bản Mường rộn ràng, vui vẻ. Có nơi người lớn hát sắc bùa, họ đi đến từng nhà hát những lời chúc mừng, có khi đối đáp với chủ nhà. Lời hát thường có sẵn nhưng ứng tác cũng nhiều. Họ có thể hát rằng: “Anh em phường bùa chúng tôi/ Chúc Tết nhà ông/ Trông đi ngó lại/ Trâu bò nhà ông/ Nhốt buộc đầy sân/ Đụm lúa nếp nhà ông/ Ăn đến hết tháng 5/ Ăn đến hết tháng 10/ Dàn chiêng xéc bùa chúng tôi/ Leo qua 9 vai núi/ Lội qua 10 áng mây…”

Ở Ân Nghĩa tục này không còn nữa. Bà con cho hay, chỉ đến ngày Mùng 6, trong lễ hội đình Khói mới có các tiết mục văn nghệ như hát sắc bùa, chơi các môn thể thao truyền thống như đánh cù, đánh mảng, ném còn… Và đến hôm đó các bà các chị mới mặc trang phục Mường truyền thống.