Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Trần Quý Cáp với phong trào Duy Tân

Vĩnh Khánh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Cùng với Phan Chu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp (1870 - 1908) đã khởi xướng phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20.

Ông cũng là người trực tiếp thực hành tư tưởng Duy Tân một cách quyết liệt nhất. Cái chết bi tráng của ông sẽ sống mãi với tinh thần Duy Tân.
Không làm quan để theo đuổi Duy Tân
Trần Quý Cáp thuở nhỏ tên là Trần Nghị, sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở thôn Thai La, làng Bất Nhị, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Trần Nghị thông minh, hiếu học nhưng nhà nghèo nên cơ hội học hành khó khăn. Nhà nghèo nên từ trẻ ông đã vừa học vừa phải đi dạy học “để có thể hôm sớm phụng dưỡng mẹ già” (Tiểu sử Trần Quý Cáp - Trần Huỳnh Sách).

Đền thờ Trần Quý Cáp thuộc thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Đền thờ Trần Quý Cáp thuộc thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Năm 20 tuổi, ông được cụ Đốc học Mã Sơn Trần Đình Phong chọn về nuôi học ở trường Đốc Thanh Chiêm và cho đổi tên thành Trần Quý Cáp, tự Dã Hàng, biệt tự Thích Phu, hiệu Thai Xuyên. Học giỏi nhưng đường công danh của ông rất lận đận. Năm 1897, ông mới đỗ Tú tài. Mãi đến năm 1904, ông mới được đặc cách cho thi Hội rồi thi Đình đỗ Nhất Giáp Tiến sĩ cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng.
Đỗ đạt nhưng Trần Quý Cáp không ra làm quan mà cùng Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng là những người đồng hương, đồng học, đồng chí hướng dựng cờ Dân quyền, khởi xướng sự nghiệp Duy Tân, "tự gánh trách nhiệm bài xích cử nghiệp, đề xướng tân học" (Huỳnh Thúc Kháng).
Khác với Phan Chu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng, theo GS Nguyễn Văn Xuân, thời kỳ đầu Trần Quý Cáp có liên hệ và làm việc cho Duy Tân hội của Phan Bội Châu và Nguyễn Thành. Nhưng giai đoạn sau thì ông hoàn toàn đồng chí hướng, đồng hành Duy Tân với Phan Chu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng.
Năm 1904, ông cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lên tận các vùng rừng sâu nước độc, núi non hiểm trở của Quảng Nam như Phước Sơn, Thạnh Mỹ để tuyên truyền, vận động tư tưởng Duy Tân.
Tháng 2/1905, nhân có ông Huỳnh Thượng Trung là học trò của Trần Quý Cáp ở trong Nam ra mời, cả ba ông lại cùng lên đường đi vào các tỉnh phía Nam để cổ động cho Dân quyền và Duy tân văn hóa. Đi đến đâu các ông cũng được nhiều người hưởng ứng.
Khi đi ngang qua Bình Định gặp kỳ khảo hạch ở trường tỉnh, ba ông cải trang thành học trò đi thi. Phan Châu Trinh đã làm bài thơ “Chí thành thông thánh” còn Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú “Danh Sơn Lương Ngọc”, đều ký tên là Đào Mộng Giác. Bài phú “Danh Sơn Lương Ngọc” bài xích cái học cử nghiệp, làm thức tỉnh tầng lớp trí thức trước nỗi nhục mất nước, tạo một tiếng vang lớn trong dư luận khiến quan tỉnh hoang mang, lo lắng, báo cáo về triều đình và truy tìm tác giả. Nhưng lúc này cả ba ông đã tiếp tục cuộc Nam du.
Lúc đi qua Khánh Hòa gặp tàu chiến của Nga vào tránh bão ở vịnh Cam Ranh, các ông giả làm người bán hàng để xuống tàu quan sát.
Thực hành Duy Tân trên quê hương
Sau khi Nam du về trở về, Trần Quý Cáp cùng các nhân sĩ, thân hào bắt tay thực hiện công cuộc Duy Tân, xướng lập Hội thương, trường Tân học. Phong trào Duy Tân đã được phát động ồ ạt không chỉ riêng trong tỉnh Quảng Nam mà cả những tỉnh Nam Trung bộ.
Trước tiên, Trần Quý Cáp lập hội buôn, mở đồn điền để mở ra cách làm ăn mới đồng thời làm kinh tài cho phong trào.
Tại Quảng Nam, lúc này nhiều thương hội (còn gọi là hợp thương) được thành lập và hoạt động sôi nổi để phát triển kinh tế và giành lại phần nào quyền lợi trong tay ngoại quốc nhất là thương gia Hoa kiều. Các thương hội Phong Thử, Diên Phong, thương cuộc Hội An, Phú Lâm… được thành lập, có tổ chức quy củ để hướng đến nền thương mại mới, có đoàn thể, có vốn lớn, vừa bảo đảm việc sản xuất trong nước vừa cạnh tranh với người nước ngoài và kích thích công nghệ, nông nghiệp phát triển. Việc buôn bán không chỉ trong phạm vi Quảng Nam mà còn mở rộng ra các tỉnh, ra tận Hà Nội. Nhiều nơi như Huế, Nghệ An, Phan Thiết cũng đã mở các thương hội. Để khuyến khích lập thương hội, Trần Quý Cáp làm Bài ca khuyến hiệp thương. Bài có câu: Đem tâm huyết nhiễm chăng dòng máu đỏ/Bỏ bạc tiền ra đó buôn chung/Người có của, kẻ có công/Xem nhau lại đem lòng nhân ái.
Năm 1906, thực hiện chủ trương "Dĩ nông hợp quần", Trần Quý Cáp lập nông hội Cờ Vĩ. Trần Huỳnh Sách có ghi lại: “…Thấy đất linh láng màu mỡ tốt, bèn về mộ phu lên làm. Lúc ấy dân chưa nhận thức, người sợ nước độc, kẻ sợ xa nhà nên không ai chịu đi. Tiên sinh phải ra thuê một sở ruộng làng Cẩm Nê chỗ giáp giới huyện Hòa Vang với phủ Điện Bàn, diện tích ước chừng hai mươi mẫu để lập nông hội. Tiên sinh đứng ra tổ chức và trông coi sự làm ruộng ấy, mục đích để lấy hoa lợi tiếp tế cho anh em du học”.
Lúc Trần Quý Cáp đang ở Cẩm Nê thì triều đình bổ chức Giáo thọ Thăng Bình. Theo Trần Huỳnh Sách: “… tiên sinh không muốn đi, nhưng thân bằng lấy sự nhà nghèo và mẹ già khuyến khích mãi, tiên sinh mới đi”. Về việc này, trong bài thơ khóc Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng cũng viết: "Làm quan vì mẹ há vì tiền”.
Là bất đắc dĩ nhưng Trần Quý Cáp đã biến nó thành cơ hội để duy tân giáo dục, hợp pháp hóa chủ trương dạy chữ quốc ngữ, truyền bá tân học. Ông đã biến ngôi trường của chính quyền theo lối học khoa cử cũ thành ngôi trường của Duy Tân theo lối học mới, tiến bộ. Trường dạy chữ quốc ngữ, chữ Pháp, dạy các môn khoa học tự nhiên và xã hội, dạy thủ công, thể dục, võ thuật, chú trọng thực dụng và có tính cách hướng nghiệp. Ông còn tổ chức diễn thuyết cổ động cho tân học khiến hàng ngũ thân hào nhân sĩ tự nguyện góp công, góp của dựng lên những ngôi trường Duy Tân trong các xóm làng. Ông làm bài Chiêu hồn nước là bài ca khuyến học thể hiện tư tưởng và tinh thần duy tân của ông. “Chữ quốc ngữ là hồn trong nước/Phải đem ra ra tỉnh trước dân ta”; hoặc: Một người học, muôn người đều biết/Trí đã khôn, trăm việc phải hay/Lợi quyền đã nắm trong tay/Có ngày tấn hóa, có ngày văn minh”.
Không đầy 6 tháng, 40 trường tân học đã ra đời, nhiều trường đã gây được uy tín và ảnh hưởng lớn như trường Phú Lâm, Diên Phong, Phước Bình, Cẩm Toại...
Những việc làm của ông được quần chúng hưởng ứng mạnh mẽ, gây tiếng vang lớn làm cho giới cựu học phải gai mắt, nhà cầm quyền e ngại, lo sợ. Vì vậy, chúng đổi ông vào làm Giáo thọ Ninh Hòa (Khánh Hòa) với mục đích tách ông ra khỏi phong trào Duy Tân đang sôi sục ở Quảng Nam.
Cái chết bi tráng của bậc anh hùng
Năm 1908 ông vào Ninh Hòa. Chưa được bao lâu thì cuộc biểu tình chống sưu khất thuế nổ ra ở Quảng Nam rồi lan nhanh đến các tỉnh khác từ Phú Yên đến Hà Tĩnh. Mặc dù phong trào chưa nổi lên ở Khánh Hòa và không có bằng chứng cụ thể, Trần Quý Cáp vẫn bị bắt và bị xử chém một cách vội vàng.
Huỳnh Thúc Kháng gọi đây bản án “Mạc tu hữu” - giết người không cần chứng cớ.
Phan Châu Trinh, trong bản điều trần bằng Pháp văn, ngày 8/4/1912 tại Paris về “Vụ giết hại nhà nho nổi tiếng Trần Quý Cáp”, khẳng định: "... Thủ phạm của vụ mưu sát này đã được tôi nêu đích danh nhiều lần, chính là Phạm Ngọc Quát, lúc bấy giờ là Bố chánh của tỉnh Khánh Hòa”.
Ông Trần Huỳnh Sách, học trò của Trần Quý Cáp thì cho rằng Án sát Nguyễn Văn Mại vốn đã có tư thù với tiên sinh cùng với Bố chánh Khánh Hòa là Phạm Ngọc Quát là thủ phạm đã vu oan hãm hại ông.
Lê Thị Kinh trong sách “Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới” xác định: “Trực tiếp quyết định giết cụ Trần là Khâm sứ và Công sứ Khánh Hòa. Chúng đã đánh giá bản lĩnh của cụ và chủ định giết cụ để ngăn chặn phong trào lan rộng vào các tỉnh Nam Trung kỳ”.
Ngày 17/5/1908, Trần Quý Cáp bị đưa ra bãi sông Cạn xử trảm. Trong bài điếu ông, Phan Bội Châu viết: “Nhớ khi ông tới trường chém, dao đã kề cổ, còn ung dung xin với quan giám trảm cho đặt án, đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân năm bái, rồi khẳng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách”.
Đó là khí phách của bậc anh hùng, của một chí sĩ yêu nước.

 

Hơn 100 năm đã qua nhưng tinh thần yêu nước, khí tiết hiên ngang và tư tưởng Duy tân của Trần Quý Cáp vẫn là tấm gương sáng cho các thế hệ hôm nay, và mai sau, trên con đường đổi mới đất nước.