Trình Quốc hội xem xét đầu tư đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô

Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Sáng 6/6, Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra chủ trương đầu tư 5 dự án giao thông quan trọng, trong đó có đường vành đai 4 thủ đô Hà Nội.

Sáng 6/6, Quốc hội đã nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra chủ trương đầu tư 5 dự án giao thông quan trọng gồm: cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (giai đoạn 1), cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột (giai đoạn 1), cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1), đường vành đai 3 TP Hồ Chí Minh và Vành đai 4 Thủ đô Hà Nội.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Nguyễn Chí Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng trình bày tờ trình về chủ trương đầu tư dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Nguyễn Chí Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng trình bày tờ trình về chủ trương đầu tư dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh .

Đây là 2 dự án có vai trò liên kết vùng, thúc đẩy phát triển đô thị hóa, có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển KT- XH đã được dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2011 – 2022.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là sự hạn chế về nguồn lực nên chưa có điều kiện để triển khai trong giai đoạn này. Đến nay, các điều kiện về cơ sở pháp lý, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhu cầu thực tiễn và nguồn lực cơ bản đáp ứng yêu cầu, do vậy, việc triển khai 2 dự án trong giai đoạn 2021 – 2025 là hợp lý và cần thiết.

Theo đề xuất của Chính phủ, Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 112,8 km, gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài – Hạ Long, đi qua địa phận TP Hà Nội (58,2km); Hưng Yên (19,3km); Bắc Ninh (dài 25,6km). Dự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh dài 76,34 km, đi qua địa phận TP Hồ Chí Minh (47,51km); Đồng Nai (11,26km); Bình Dương (10,76km); Long An (6,81km).

Cả hai dự án đều tiến hành giải phòng mặt bằng các tuyến đường theo quy mô quy hoạch (6-8 làn xe cao tốc) và hệ thống đường đô thị song hành 2 bên. Riêng đường Vành đai 4 sẽ giải phóng mặt bằng dự trữ cho tuyến đường sắt vành đai. Trên cơ sở kết quả dự báo nhu cầu vận tải, phù hợp các giải pháp đầu tư và nguồn lực, giai đoạn 1 đầu tư theo quy mô 4 làn xe cao tốc hạn chế, vận tốc thiết kế 80 km/h; đầu tư xây dựng đường song hành 2 bên.

Với quy mô đầu tư như trên, Dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội có diện tích đất chiếm dụng khoảng 1.341 ha; kinh phí giải phóng mặt bằng, tái định cư khoảng 19.590 tỷ đồng; Dự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh là khoảng 642,7 ha, kinh phí giải phòng mặt bằng, tái định cư khoảng 41.589 tỷ đồng, thực hiện giải phóng mặt bằng một lần theo quy hoạc và giải phòng mặt bằng theo quy mô hoàn chỉnh đối với các nút giao liên thông (đầu tư giai đoạn 1).

Chính phủ kiến nghị Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô sẽ có hình thức đầu tư là đầu tư công kết hợp đầu tư theo phương thức PPP, được chia thành 7 dự án thành phần; tách riêng phần giải phòng mặt bằng và xây dựng đường song hành triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công; riêng Dự án thành phần 2 gồm hệ thống đường cao tốc toàn tuyến và tuyến nối 9,7 km do UBND TP Hà Nội là cơ quan có thẩm quyền.

Dự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh được kiến nghị đầu tư theo hình thức đầu tư công, chia thành 8 dự án thành phần; tách riêng phần giải phòng mặt bằng và phần xây dựng triển khai độc lập theo địa giới giữa các địa phương.

Đối với Dự án đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước và vốn BOT của nhà đầu tư, trong đó vốn BOT 29.447 tỷ đồng. Dự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 75.378 tỷ đồng, sử dụng toàn bộ vốn Ngân sách Nhà nước, trong đó ngân sách Trung ương tham gia là 38.741 tỷ đồng.

Chính phủ dự kiến thời gian thực hiện 2 dự án là từ năm 2022 đến năm 2027. Để đàm bảo tiến độ đầu tư, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng các nhóm cơ chế, chính sách đặc biệt để triển khai đầu tư các dự án.

Báo cáo thẩm tra sau đó, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết Ủy ban Kinh tế nhất trí với Chính phủ về sự cần thiết đầu tư 2 dự án này.

Về nguồn vốn, Ủy ban Kinh tế cho rằng việc Chính phủ dự kiến nguồn lực ngân sách trung ương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được phân bổ cho Bộ Giao thông vận tải và nguồn ngân sách chưa phân bổ trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 nhằm cơ bản hoàn thành 2 dự án này là phù hợp với mục tiêu, định hướng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025.

Về ngân sách địa phương, ông Vũ Hồng Thanh cho biết đến nay, HĐND các địa phương đã ban hành các nghị quyết cam kết bố trí vốn cho 2 dự án này. Tuy nhiên, để bảo đảm tiến độ, chất lượng cho các dự án, đề nghị các địa phương cam kết chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc bố trí nguồn ngân sách địa phương cho 2 dự án.