Văn Miếu-Quốc Tử Giám: Từ ngôi chùa hoang phế đến di sản văn hoá

Minh An
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi- Chào mừng 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp (1973-2023), ngày 14/2, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp khai mạc triển lãm “Văn Miếu trong sự hồi sinh di sản của Hà Nội giai đoạn 1898-1954”.

Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Phong đã tới dự và cắt băng khai mạc triển lãm.

Các đại biểu, khách mời cắt băng khai mạc triển lãm.
Các đại biểu, khách mời cắt băng khai mạc triển lãm.

Trường dạy học của quân đội Pháp

Triển lãm “Văn Miếu trong sự hồi sinh di sản của Hà Nội giai đoạn 1898-1954” mở đầu bằng màn trình diễn thổi kèn tây của các nghệ sĩ. Đó cũng là cách, BTC triển lãm kể câu chuyện về quá trình hồi sinh di sản Văn Miếu đến công chúng.

Cổng nhỏ bên phải, trong khuôn viên Văn Miếu dẫn sang khu điện Khải Thánh xưa.
Cổng nhỏ bên phải, trong khuôn viên Văn Miếu dẫn sang khu điện Khải Thánh xưa.

Bởi theo tài liệu trưng bày tại triển lãm, vào cuối thế kỷ XIX, trên các bản đồ, vị trí Văn Miếu nằm ở rìa kinh thành Thăng Long, giữa một khu vực nông thôn, dân cư thưa thớt, cách xa trung tâm, thuộc tỉnh Hà Đông. Văn Miếu khi ấy chỉ được người Pháp gọi là “Chùa Quạ” vì mức độ hoang phế. Có thời gian, quân đội Pháp sử dụng di tích này để đặt trường dạy thổi kèn. Trong thời gian dịch tả hoành hành, Văn Miếu được sử dụng làm nơi cách ly bệnh nhân.

Văn Miếu góc nhìn từ giếng Thiền Quang, trong khu vườn tiến sĩ, phía xa, ở chính giữa là công Đại Thành.
Văn Miếu góc nhìn từ giếng Thiền Quang, trong khu vườn tiến sĩ, phía xa, ở chính giữa là công Đại Thành.

Quá trình đô thị hoá nhanh chóng của Hà Nội diễn ra sau khi cách thành luỹ bị dỡ bỏ và việc xuất hiện nhiều tuyến phố mới đã khiến Văn Miếu nằm giữa trung tâm của một đô thị đang phát triển. Trước bối cảnh đó, năm 1899, các bức tường bao của di tích được xây lại, có hình tứ giác đều. Công trình hoàn thành vào năm 1900, Văn Miếu lấy lại được chức năng thờ tự ban đầu, giá trị di sản được công nhận, kể từ có công tác trùng tu, bảo tồn di tích được thực hiện.

 

Triển lãm cho thấy sự phát triển về mặt kiến trúc của Văn Miếu, cuộc sống bên trong; cũng như công tác tu bổ, tôn tạo di sản trong nhiều năm, với sự cống hiến miệt mài và tận tụy của những người tham gia công tác này. Với các tư liệu quý, Triển lãm cho phép chúng ta trở lại quá khứ gần như vẫn còn hiện hữu nơi đây.

Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp Nicolas FIÉVÉ

Giai đoạn năm 1899 – 1900, cùng với quá trình đô thị hoá, Văn Miếu lúc đó được bao quanh bởi các phố phường, người Pháp đã cho xây dựng tường bao để toàn bộ khu Văn Miếu

Lần trùng tu Văn Miếu đầu tiên được thực hiện vào năm 1904. Thời điểm đó, người Pháp không còn xâm hại không gian di tích. Rất nhiều các công trình được trùng tu đợt này như: Khuê Văn Các, Tả Vu, toà đình bia bên phải; đồng thời còn sửa chữa cổng Văn Miếu, tường bao và Giếng Thiên Quang.

Năm 1905, công việc trung tu được tiếp tục, mái ngói trên điện Khải Thánh và một số công trình khác được lợp lại, đặc biệt nội thất bên trong cũng được tu sửa: Sơn son lại toàn bộ nột thất, các cột, hoành phi, trần và sàn nhà.

Tuy nhiên, có một giai đoạn đặc biệt là 1917 – 1920, Văn Miếu trong thời gian này bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1917, một đợt đại tu được thực hiện dưới sự giám sát của Henri Parmentier. Đợt trùng tu này kéo dài trong 4 năm do chính quyền tỉnh Hà Đông thực hiện với sự hỗ trợ của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO), bao gồm sửa gạch lát sân, thay thế các khung bị hỏng, lan can và một số mái ngói, sơn son thếp vàng lại toàn bộ các công trình. Cuối cùng là gỡ bỏ chiếc cổng sắc kiểu châu Âu ở mặt tiền lạc lõng với kiến trúc di tích.

Ngoài ra, việc trùng tu Văn Miếu còn một số dấu mốc đáng nhớ, được giới thiệu thông qua tư liệu tại triển lãm như: Năm 1933, Sở Công chính Hà Đông tiến hành sửa chữa tổng thể bằng khoản trợ cấp 4.494 đồng bạc Đông Dương dưới sự giám sát của EFEO. Năm 1946, một số công trình trong Văn Miếu bị phá huỷ; đến năm 1953, việc xây dựng lại hai dãy Tả Vu và Hữu Vu nằm hai bên sân Bái Đường được xem xét thực hiện, công trình hoàn thành vào tháng 8/1954.

Tỉ mỉ trong từng công đoạn

Từ những bản thiết kế, chiếc búa, miếng gỗ sử dụng trong việc trùng tu di tích được trưng bày, công chúng có dịp hiểu hơn về di sản Văn Miếu.

Khách quốc tế tham quan trưng bày tại triển lãm.
Khách quốc tế tham quan trưng bày tại triển lãm.

Theo các thông tin tại triển lãm, do đặc thù công trình được xây dựng bằng gỗ và ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, công việc trùng tu Văn Miếu đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên dù là trước đây hay bây giờ.  

Việc trùng tu các di tích như Văn Miếu luôn cần bàn tay của những người thợ thủ công Việt Nam tài hoa. Chỉ những người thợ mộc, thợ sơn mài, thợ điêu khắc… nắm giữ những bí quyết, kỹ thuật truyền thống mới có thể thực hiện công việc này. Vài trò của EFEO và giới chức Việt Nam lúc bấy giờ là lựa chọn những thợ thủ công tài hoa, xác định các công trình cần ưu tiên sửa chữa và tìm nguồn kinh phí.

Cùng với tư liệu, hình ảnh, hiện vật, triển lãm cũng giới thiệu đến công chúng chân dung của những con người luôn có niềm đam mê với di sản, đã góp phần cho bảo tồn khu di tích - sự quyết tâm, nỗ lực không mệt mỏi nhằm đối phó trước những tác động mạnh mẽ của thời gian lên di sản. Trong đó có thể kể tới ông Hoàng Trọng Phu - Tổng đốc Hà Đông từ năm 1907 – 1938. Ông là người ủng hộ việc sử dụng các kỹ thuật nghề thủ công truyền thống để tu bổ di tích.

Nhìn lại quá khứ để hướng tới tương lai, trong trưng bày “Văn Miếu trong sự hồi sinh di sản của Hà Nội giai đoạn 1898-1954”, công chúng thấy được hình ảnh di tích quốc gia đặc biệt đã được số hoá. Ở đó, tất cả các yếu tố của không gian kiến trúc và cảnh quan được thiết lập theo toạ độ 3 chiều.

Nhờ độ chính xác của phương pháp này, hiện trạng di tích được số hoá sẽ cung cấp dữ liệu chuẩn xác giúp công việc nghiên cứu trở nên dễ dàng hơn. Để trùng tu di tích, phương pháp này cho phép theo dõi sự thay đổi cấu trúc của công trình mà mắt thường không nhìn thấy được. Phó Trưởng Đại sứ Pháp tại Việt Nam Cecile Vigneau cho rằng: “Đây là một trong những hoạt động đưa Văn Miếu trở thành nơi đi đầu học thuật, hoà nhập với kỷ nguyên số”.

 

Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) kể từ khi được thành lập vào năm 1902 tại Hà Nội - khi đó là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, đã đặt cho mình nhiệm vụ thăm dò khảo cổ học, thu thập các bản thảo, bảo tồn các di tích, nghiên cứu về các dân tộc thiểu số, ngôn ngữ và lịch sử của các nền văn minh châu Á từ Ấn Độ đến Nhật Bản.

Suốt nhiều năm, Viện đã có mối liên hệ chặt chẽ với di tích trong việc bảo vệ, tu bổ thường xuyên, phục hồi chức năng thờ tự, đưa di tích trở thành một trong những di sản đầu tiên của Hà Nội được đơn vị được xếp hạng. Lịch sử của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp luôn gắn liền với Văn Miếu cho đến tận khi EFEO rời đi vào năm 1957.