Vì sao khó xây dựng thương hiệu quốc gia cho gạo Việt?

Ánh Ngọc
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Gạo Việt Nam sẽ mãi lép vế trên thị trường quốc tế nếu không được chú trọng xây dựng thương hiệu chiến lược, bài bản, đặc biệt là xây dựng thương hiệu mạnh mang tầm cỡ quốc gia.

Chất lượng tốt nhưng vẫn vô danh

Từng đạt giải gạo ngon nhất thế giới, luôn giữ vị trí hàng đầu thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu, song hầu hết gạo Việt Nam vẫn xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, chưa có thương hiệu riêng.

Tập đoàn Lộc Trời xuất khẩu gạo thương hiệu “Cơm ViệtNam Rice” sang nhiều nước Châu Âu. Ảnh: Nguyên Bình
Tập đoàn Lộc Trời xuất khẩu gạo thương hiệu “Cơm ViệtNam Rice” sang nhiều nước Châu Âu. Ảnh: Nguyên Bình

Đơn cử như, so với các nước như Thái Lan, Campuchia… gạo Việt Nam đang có lợi thế rất lớn để xuất khẩu vào EU nhờ chất lượng tốt và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU, nhưng gạo Việt lại thua về thương hiệu trước các nước đối thủ trong khu vực.

Theo đánh giá của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, phần lớn gạo Việt Nam khi xuất khẩu sang EU đều là gạo thô, chưa có thương hiệu riêng. Các doanh nghiệp nhập khẩu sau khi nhập về sẽ đóng bao bì, nhãn mác của họ lên sản phẩm gạo Việt Nam để bán cho người tiêu dùng.

Chẳng hạn, gạo Việt Nam được bán tại Anh quốc với các thương hiệu do các nhà phân phối đặt như: Longdan, Golden Lotus, Buffalo (của Longdan Supermarket), Green Dragon (của Westmill UK) và Red Ant (của MediFood).

Phân tích về vấn đề này, Thương vụ Việt Nam tại Anh (Bộ Công Thương) Nguyễn Cảnh Cường cho rằng, nguyên nhân là các doanh nghiệp Việt chưa quan tâm xây dựng thương hiệu. Do đó, nhà phân phối sở tại cho rằng, thương hiệu riêng của họ marketing hiệu quả cao hơn thương hiệu gạo của Việt Nam.

Dẫn chứng rõ nhất là gạo ST25 Việt Nam dù được công nhận là gạo ngon nhất thế giới năm 2019 nhưng rất ít người dân Anh biết đến. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt khi xuất loại gạo này sang hầu như họ chưa mặn mà với thương hiệu, nên hiệu quả marketing thấp.

Thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Giang Lam
Thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Giang Lam

Quan tâm về yếu tố chất lượng, TS Lê Văn Bảnh - nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long nhận định, Việt Nam có rất nhiều loại gạo ngon, thậm chí hơn hẳn gạo ngon của các nước đang cạnh tranh. Tuy nhiên, do chạy theo số lượng 3 vụ/năm nên chất lượng chưa cao và không đồng đều.

Trong khi đó, Thái Lan chỉ sản xuất 1 - 2 vụ/năm nên chất lượng tốt hơn, giá bán duy trì ở mức cao. Đáng nói, khi cạnh tranh về thương hiệu tại các thị trường, thậm chí ở trong nước, gạo Việt lép vế hoàn toàn.

Đầu tư bài bản cho thương hiệu gạo Việt

Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, để tạo ra vị thế cho gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế, ngành gạo Việt Nam cần triển khai một chiến lược thương hiệu phù hợp với từng thị trường.

Chương trình thương hiệu quốc gia cần lựa chọn một số chủng loại gạo chất lượng cao có sản lượng lớn để đặt tên theo hướng đơn giản, dễ nhớ và gắn với địa danh nơi trồng lúa, tạo thuận lợi đăng ký bảo hộ tại nước ngoài.

 

Theo Ðề án “Tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030”, đến năm 2025, Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 5 triệu tấn gạo. Trong đó gạo thơm, đặc sản và gạo japonica chiếm 40%, gạo nếp 20%, gạo trắng phẩm chất cao 20%, gạo phẩm trung bình và thấp 15%, sản phẩm từ gạo 5%. Tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu là 20%.

Kiến nghị về chính sách, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam Đỗ Hà Nam đề xuất: Để xây dựng thương hiệu gạo Việt cần cụ thể hóa chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thương hiệu và được gắn nhãn chứng nhận quốc gia gạo Việt Nam (Vietnam Rice).

Theo đó, Nhà nước cần hỗ trợ thiết lập các văn phòng giới thiệu, quảng bá gạo Việt Nam ở các thị trường trọng điểm. Bên cạnh đó, các bộ, ngành liên quan cần xem xét bỏ thủ tục đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo, tham gia đấu thầu hợp đồng tập trung và yêu cầu đạt chuẩn đối với nhà máy của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Khuyến nghị về giải pháp đa dạng thị trường, TS Lê Văn Bảnh cho rằng, ngành gạo cần bảo đảm độ thuần chủng và không ngừng cải tiến chất lượng đối với các giống lúa tốt như ST24, ST25. Bên cạnh đó, tùy theo từng thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp phải tạo ra giống lúa thích hợp để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng.

Chẳng hạn, người dân Đông Bắc Á chuộng gạo hạt dài và dẻo; người dân Trung Đông thích gạo khô; người Tây Âu và Bắc Mỹ thích gạo thơm. Việc xây dựng thương hiệu gạo Việt cần bao gồm cả thương hiệu quốc gia, thương hiệu vùng miền và thương hiệu doanh nghiệp.

“Một số doanh nghiệp gạo hiện còn đưa ra chiến lược đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, khép kín từ khâu giống đến tiêu thụ, phát triển nhiều giống và loại gạo khác nhau. Đây là bước đi đúng hướng bởi xây dựng thương hiệu gạo trong nước cũng chính là bước đầu hình thành thương hiệu gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế.” – TS Lê Văn Bảnh chia sẻ.

Đề cập tới vấn đề xây dựng thương hiệu quốc gia cho gạo nói riêng và nông sản xuất khẩu nói chung, TS Cấn Văn Lực cho rằng: Việc hỗ trợ phát triển thương hiệu sản phẩm với các mặt hàng xuất khẩu thông qua việc xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển các kênh bán hàng ngay tại thị trường xuất khẩu.

Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm không chỉ là nhiệm vụ của doanh nghiệp mà phải được thực hiện ở quy mô, tầm cỡ quốc gia. Để tạo lập giá trị bền vững, thương hiệu nông sản cần được gắn với chỉ dẫn địa lý mang hình ảnh quốc gia, địa phương qua đó tạo sự khác biệt hóa và nâng cao giá trị thương hiệu cho sản phẩm.