Việt Nam hội nhập cùng cộng đồng kinh tế ASEAN

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 08/08/1967 tại Bangkok, Thái Lan trên cơ sở Tuyên bố ASEAN được ký kết bởi 05 thành viên sáng lập là Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Thái Lan.

Mười bảy năm sau, Vương quốc Brunei chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 07/01/1984. Tiếp đó là sự gia nhập của 04 bốn nước khu vực là Việt Nam (ngày 28/07/1995), Lào và Myanma  ngày 23/07/1997, Campuchia ngày 30/04/1999. Tổng số thành viên ASEAN hiện tại lên đến con số 10.

Việc tham gia ASEAN của Việt Nam là một quá trình liên tục:

Năm 1988, Việt Nam thông qua chủ trương "thêm bạn, bớt thù" sẵn sàng làm bạn với các nước khu vực và thế giới.

Năm 1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam Á (TAC) và trở thành quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hằng năm. Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN.

Tháng 7-1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sáng lập của Diễn đàn này.

Ngày 28-7-1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tại Bru-nây Đarút-xa-lem, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ bảy của tổ chức này. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trên con đường hội nhập khu vực và thế giới, đưa nước ta tiến lên con đường phía trước trên con đường xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là mong muốn của những nước sáng lập ra ASEAN và nhân dân trong khu vực về một hiệp hội bao gồm 10 nước trong khu vực. Các quốc gia thành viên sẽ cùng nhau hợp tác vì hoà bình, ổn định, phát triển,  ở khu vực và trên thế giới.

Gia nhập ASEAN là một trong những điểm đột phá đầu tiên để chúng ta triển khai phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại mà Đại hội Đảng lần thứ 7 đã đề ra. Quyết định gia nhập ASEAN là bước đi chiến lược đúng đắn và sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta, đánh dấu cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước.

Tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế đầu những năm 1990 rất không có lợi cho Việt Nam. Chúng ta từng trăn trở với suy nghĩ “hòa nhập” hay sẽ bị “hòa tan” trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, cân nhắc những lợi ích và thách thức từ việc gia nhập ASEAN, Đảng và Nhà nước đã quyết tâm vượt qua khó khăn để quyết định gia nhập ASEAN. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần thúc đẩy quá trình Đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước.

Quá trình Việt Nam tham gia ASEAN luôn gắn với những chủ trương lớn về chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với xu thế khu vực hóa ngày càng gia tăng. Tư tưởng chủ đạo cho hội nhập quốc tế của Việt Nam là “đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, hòa bình để phát triển, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới”.

Tiếp đó là chủ trương “Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương”  và “Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”.

Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”.

Tham gia thành công với ASEAN đã giúp Việt Nam vững tin mở rộng, nâng tầm quá trình hội nhập quốc tế của đất nước với việc gia nhập các tổ chức quan trọng như APEC, ASEM, WTO. Bên cạnh đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công trách nhiệm thành viên của nhiều cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc như Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền, Ủy ban Di sản thế giới UNESCO...

1.Đóng góp của Việt Nam trong Cộng đồng kinh tế ASEAN

Từ ngày gia nhập ASEAN, Việt Nam đã từng bước hội nhập, tham gia khá toàn diện vào nhiều  lĩnh vực hợp tác của ASEAN và đã có những đóng góp đáng kể,  góp phần không nhỏ vào sự phát triển và thành công của ASEAN: tích cực trong việc duy trì đoàn kết nội khối; đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên cũng như giữa ASEAN với một số đối tác bên ngoài. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN góp phần chấm dứt thời kỳ căng thẳng, không ổn định và đầy nghi ngại giữa các nước trong khu vực, tạo nên môi trường hòa bình, an ninh và ổn định, mở ra thời kỳ phát triển mới của khu vực.

Thách thức lớn đầu tiên đối với Việt Nam sau khi tham gia ASEAN chính là  cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997. Việt Nam phải đảm nhận nhiệm vụ tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 trong bối cảnh không thuận lợi. Sự nỗ lực, cố gắng của Việt Nam cộng với sự đồng thuận giữa các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN đã đưa đến kết quả là bản Tuyên bố Hà Nội năm 1998 đánh giá đúng đắn về tình hình và triển vọng ở Đông Nam Á, khẳng định vai trò của ASEAN và đề ra những biện pháp khắc phục.

Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (ASC) (nhiệm kỳ 2000 - 2001), đóng góp tích cực vào việc mở rộng thành viên của ASEAN (kết nạp các nước Lào, Myanmar, Campuchia). Việt Nam đã làm tốt vai trò nước điều phối quan hệ đối thoại của ASEAN với một số đối tác quan trọng, như: Nga, Mỹ, Australia, Canada, Trung Quốc. Hiện nay Việt Nam là nước điều phối quan hệ đối thoại ASEAN - EU (nhiệm kỳ 2012 - 2015).

Hai mươi năm qua, Việt Nam ngày càng trưởng thành, chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào các hoạt động chung của ASEAN với tinh thần trách nhiệm cao. Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN về  kinh tế, văn hóa - xã hội, chính trị - an ninh và quan hệ đối ngoại.

Về kinh tế. Trong việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch tổng thể Xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam là một trong 3 nước đạt tỷ lệ cao nhất (84,5%). Việt Nam đã tham gia tích cực đàm phán về các biện pháp thuận lợi hóa thương mại, đầu tư, dịch vụ; Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mở rộng và thể chế hóa khuôn khổ quan hệ của ASEAN với các nước lớn và các đối tác quan trọng. Việt Nam cũng đã nỗ lực hoàn thành cam kết về xóa bỏ thuế quan đối với các sản phẩm trong các ngành ưu tiên hội nhập theo lộ trình. Đồng thời với chương trình cắt giảm thuế quan, Việt Nam còn phối hợp với các nước ASEAN triển khai chương trình công tác nhằm xác định, phân loại và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan.

Về văn hóa – xã hội. Cùng với các thành viên khác, Việt Nam đã chủ động đề xuất sáng kiến, ủng hộ các hình thức hợp tác khác nhau trong nhiều lĩnh vực ưu tiên của ASEAN như môi trường, quản lý thiên tai, biến đổi khí hậu và thúc đẩy an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của lực lượng lao động di cư.

Về chính trị – an ninh. Việt Nam đã chủ trì tổ chức thành công Diễn đàn biển ASEAN (AMF) và Diễn đàn biển ASEAN mở rộng (EAMF), đồng thời tham gia tích cực các hoạt động của ASEAN về phòng, chống khủng bố và các loại tội phạm. Bên cạnh đó, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN thúc đẩy hoạt động 14 lĩnh vực ưu tiên, triển khai các mục tiêu còn lại của Kế hoạch tổng thể APSC; tích cực triển khai sáng kiến của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM); Việt Nam thể hiện có tầm nhìn chiến lược vượt ra ngoài khu vực qua việc lần đầu tiên tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM+); vận động để đại diện cho ASEAN dự Hội nghị Thượng đỉnh G-20 tại Hàn Quốc và Canada.

Về quan hệ đối ngoại. Các tổ chức chính trị xã hội của Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân với việc thành lập ngày càng nhiều các hội hữu nghị với các nước ASEAN. Các hoạt động giao lưu đối ngoại đã góp phần không nhỏ vào việc tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, tăng cường sự đoàn kết giữa Việt Nam và các nước ASEAN.

Việt Nam tiếp tục được thể hiện vai trò của mình qua những đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng các văn kiện định hướng lớn đưa ASEAN chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh liên kết và xây dựng cộng đồng như: Tuyên bố Hòa họp Bali II năm 2003; Chương trình Hành động Vientiane (VAP) năm 2004; Hiến chương ASEAN năm 2007; Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2009-2015; Kế hoạch Công tác Sáng kiến Liên kết ASEAN.

Nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam trong năm 2015 là tích cực cùng các nước trong khối ASEAN đạt mục tiêu công bố thành lập Cộng đồng ASEAN vào ngày 31/12/2015. Cùng các nước, Việt Nam sẽ đóng góp mạnh vào tiến trình xây dựng Tầm nhìn phát triển của ASEAN sau năm 2015 nhằm đẩy mạnh liên kết ASEAN sâu rộng hơn nữa. Về hòa bình và an ninh khu vực, Việt Nam tiếp tục củng cố vai trò ASEAN như một lực lượng chủ chốt đối với hòa bình và an ninh khu vực, trong đó duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.

Các nước ASEAN cho rằng Việt Nam đang ngày càng phát huy vai trò chủ động, trách nhiệm và rất tích cực trong tiến trình hội nhập cũng như xây dựng Cộng đồng ASEAN. Các nước đánh giá cao đóng góp của Việt Nam trong việc thúc đẩy đoàn kết ASEAN; trong tiến trình xây dựng quyết sách định hướng cho hoạt động của ASEAN hiện tại cũng như tương lai; trong việc thúc đẩy phát huy vai trò trung tâm của ASEAN và trong các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh ở khu vực, bao gồm vấn đề Biển Đông.

2.Những thách thức lớn mà Việt Nam đã vượt qua

- Khi gia nhập cộng đồng ASEAN năm 1995, Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế khá thấp so với các nước thành viên cũ trong ASEAN.

Tham gia ASEAN là một quá trình phức tạp buộc Việt Nam phải thật linh hoạt, mềm dẻo để vừa đảm bảo các vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vững lợi ích quốc gia của ta song vẫn có những thỏa hiệp nhất định đáp ứng những đòi hỏi cơ bản của ASEAN trong giao thương kinh tế, qua đó duy trì được sự đoàn kết, thống nhất và phát triển của ASEAN.

- Một số hình thức, mức độ hợp tác trong ASEAN chưa phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam những năm đầu gia nhập như trong quá trình tham gia và thực hiện AFTA, AIA, AICO...

 Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ta còn yếu; hệ thống luật của ta chưa hoàn chỉnh, chưa đổi mới theo luật pháp và thông lệ quốc tế và khu vực; Không ít các thủ tục còn rườm rà, bất cập với các hoạt động hợp tác ASEAN.

- Năng lực và trình độ của cán bộ ta, nhất là kỹ năng hoạt động đa phương và tiếng Anh còn hạn chế là một trở ngại đáng kể trong quá trình ta tham gia sâu rộng vào các hoạt động hợp tác trong ASEAN.

3.Lợi ích của Việt Nam tham gia ASEAN

Việc tham gia ASEAN đã hỗ trợ  rất tốt cho Việt Nam trong việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế.

Gia nhập ASEAN đã giúp nâng cao vị thế và tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế , nhất là tăng thêm trọng lượng cho ta trong quan hệ với các nước lớn cũng như tại các diễn đàn quốc tế quan trọng. Với tư cách là thành viên ASEAN, Việt Nam  đã trực tiếp tham gia trong việc xác định phương hướng phát triển và các quyết sách lớn của cộng đồng ASEAN về nhiều vấn đề liên quan đến hợp tác và phát triển ở khu vực.

Việt Nam cũng có điều kiện tranh thủ các nước ASEAN góp thêm tiếng nói trong việc xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế, đặc biệt đối với các vấn đề phức tạp, có liên quan đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.

 Thêm vào đó, Việt Nam cũng có điều kiện xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng trong khu vực, góp phần thúc đẩy hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á trong hòa bình và  ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của ta.

Việc tham gia ASEAN cũng giúp chúng ta gia tăng các hoạt động hợp tác kinh tế-thương mại, nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu; mở rộng các quan hệ với các nước trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh chính trị; đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Cộng đồng ASEAN giúp chúng ta làm quen dần với các luật chơi chung của quốc tế, với các thông lệ quốc tế, giúp giảm thiểu các rủi ro, các thiệt thòi khi tham gia hội nhập ở các tổ chức kinh tế quy mô lớn hơn như APEC, WTO...

 Cộng đồng ASEAN giúp Việt Nam thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế, tiếp cận nhiều thông tin và các tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại. Việt Nam được học tập và chia sẻ kinh nghiệm phát triển và quản lý kinh tế xã hội với các quốc gia thành viên ASEAN, những nền kinh tế mới nổi, đầy năng động trong khu vực, trong đó có các nước công nghiệp mới như Singapore, Malaysia. Có thể nói: việc gia nhập ASEAN góp phần đáng kể vào nỗ lực cải cách và phát triển kinh tế của ta.

Tham gia ASEAN giúp chúng ta nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp các ngành trong các hoạt động quốc tế và đa phương; thúc đẩy việc điều chỉnh dần các thủ tục hành chính, phong cách làm việc theo hướng phù hợp tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Hơn nữa, quá trình tham gia cộng đồng ASEAN đã giúp chúng ta đúc rút kinh nghiệm hội nhập và kinh nghiệm hợp tác đa phương, góp phần tạo bước chuyển biến tích cực trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách hội nhập khu vực và quốc tế.

Quá trình hội nhập ASEAN giúp Việt Nam có cơ hội tiếp nhận được thông tin, khoa học-công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại và nguồn lực; nâng cao năng lực thể chế và khả năng xử lý các vấn đề xuyên quốc gia như môi trường, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu; tạo chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước cho phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.

Xuất phát điểm của nước ta thấp hơn nhiều các nước ASEAN cũ, vì thế được hưởng những ưu đãi đặc biệt trong các chương trình liên kết kinh tế như AFTA, AIA, AICO, IAI, chương trình hợp tác Mekông. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng đáng kể. Về đầu tư, tỷ trọng vốn đầu tư từ các nước ASEAN trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt mức khá.

Việc tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác kinh tế với các nước ASEAN còn góp phần ổn định môi trường thương mại trong nước, giảm thiểu các biến động lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thương mại quốc gia. Môi trường kinh doanh trong nước được từng bước lành mạnh hóa, tạo sức ép lên các doanh nghiệp nội địa phải nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động thương mại, cải tiến quy trình, thủ tục kinh doanh theo hướng đơn giản và thuận tiện hơn.

Từ hội nhập thành công với các nước ASEAN, Việt Nam có điều kiện mở rộng hợp tác toàn diện với các đối tác thương mại lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, giúp phát triển thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế toàn diện, bền vững.

Quá trình tham gia ASEAN góp phần bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, trong đó có việc tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước ASEAN trong việc xử lý những thách thức đối với an ninh và phát triển, nhất là trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông.

4. Định hướng đẩy mạnh sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN

Từ  thực tiễn 20 năm gia nhập cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã nhận thức đầy đủ hơn về những cơ hội và thách thức, điểm mạnh, điểm yếu, đồng thời rút ra được những bài học thành công và chưa thành công quý giá. Cộng đồng kinh tế ASEAN ra đời cuối năm 2015 sẽ mang lại cho Việt Nam những cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi những định hướng mang tính chiến lược:

Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức đối với các nhà quản lý và doanh nhân về tầm quan trọng chiến lược của việc Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN để từ có sự quan tâm và đầu tư thích đáng về nguồn lực.

Cần tuyên truyền rộng khắp với các hình thức khác nhau, nhấn mạnh các lợi ích  đối với Việt Nam từ việc tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN. Các nước ASEAN có ảnh hưởng tốt đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước ta; là nhân tố quan trọng để Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tham gia ASEAN được xác định là việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.   

Thứ hai, hợp tác với các nước ASEAN cần tiếp tục theo phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm”. Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để góp phần xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết, thống nhất và có vai trò ngày càng quan trọng ở khu vực.

Việt Nam cần chủ động phát huy vai trò nòng cốt, đi đầu trong các lĩnh vực ta có thế mạnh và lợi ích so sánh, phát huy tinh thần chủ động đề xuất các sáng kiến, dự án cụ thể cho các hoạt động hợp tác.

Thứ ba, cần kiên trì các nguyên tắc đi cùng với sự linh hoạt về biện pháp và cách thức tiến hành nhằm tranh thủ những điểm tương đồng, hạn chế và thu hẹp sự khác biệt, hướng tới sự “thống nhất trong đa dạng” của ASEAN trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích khu vực, tăng cường đoàn kết và hợp tác trong ASEAN. Vì vậy cần đề ra chính sách, biện pháp và cách thức phù hợp với tính chất và mức độ liên kết ASEAN để thu được những lợi ích lớn nhất, mặc dù Việt Nam có sự khác biệt khá lớn về chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển.

Thứ tư, cần sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành chức năng cũng như sự tham gia của các loại hình doanh nghiệp, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ trong các hoạt động hợp tác trên mọi lĩnh vực với các nước ASEAN. Vấn đề chính ở chỗ: hoạt động của ASEAN rất đa dạng và phức tạp, diễn ra trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị - an ninh đến kinh tế và văn hóa-xã hội. Hơn nữa nhiều hoạt động không chỉ bó hẹp trong phạm vi 10 nước thành viên ASEAN và khu vực Đông Nam Á, mà cả giữa ASEAN với các đối tác lớn trên thế giới và liên quan đến các vấn đề an ninh và phát triển ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tiến trình hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng đặt ra nhiều vấn đề mới và phức tạp, mang tính chất liên ngành, tác động đến nhiều tầng lớp trong xã hội.

Thứ năm, cần tiến hành thường xuyên việc rà soát, điều chỉnh các văn bản pháp luật và quy định trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với yêu cầu của các hiệp định thương mại song phương và đa phương, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết khu vực và quốc tế. Cần tăng cường về lượng và chất cán bộ và các bộ phận chuyên trách về công tác ASEAN của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp lớn.

Tóm lại, khi Việt Nam gia nhập ASEAN có nhiều thuận lợi nhưng cũng lắm thách thức, khó khăn. Quyết định tham gia ASEAN của Đảng và nhà nước ta là hết sức đúng đắn, tạo đà cho những thắng lợi to lớn khác của chúng ta trên mặt trận đối ngoại cho đến ngày nay. Đánh giá chung, Việt Nam đã tham gia nhanh, chủ động và có hiệu quả vào các hoạt động củacộng đồng ASEAN; góp phần triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá, nhất là chính sách với các nước láng giềng, khu vực; từ đó nâng cao đáng kể uy tín và vị thế của Việt Nam ở Đông Nam Á và trên thế giới. Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy vai trò của mình, tiếp tục đồng hành và phát triển cùng ASEAN vì mục tiêu xây dựng một Cộng đồng ASEAN gắn kết và có vai trò quan trọng đối với hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Ngọc. Nhìn lại 20 năm gia nhập ASEAN. Thời báo kinh tế Việt Nam, số 38+39, ngày 13-14/2/2015.

2. Nguyễn Duy Nghĩa. Tận dung cơ hội, vượt qua thách thức khi công đồng kinh tế ASEAN được thành lập. Thời báo kinh tế Việt Nam, số 60, ngày 11/3/2015.

3. Hương Loan-Ánh Tuyết. Nhận diện cơ hội và thách thức của AEC. Thời báo kinh tế Việt Nam, số 139, ngày 11/6/2015.

4. Minh Anh. Dấu ấn Việt Nam sau 20 năm gia nhập ASEAN. Trang Web:

News.zing.vn, ngày 28/7/2015.

5. Hải Anh. Hành trình 20 năm Việt Nam hội nhập ngôi nhà chung ASEAN. Trang Web: News.zing.vn, ngày 27/7/2015.