Tình trạng này thường gây ra chứng ợ nóng, nôn trớ và khó nuốt. Bên cạnh các loại thuốc được sử dụng cho GERD, người ta ngày càng quan tâm đến vai trò của các biện pháp thay đổi lối sống.
Các phương pháp điều trị hiện tại
Phương pháp điều trị chính của GERD là một loại thuốc được gọi là chất ức chế bơm proton (PPI). Nhiều loại thuốc thường được kê đơn cho GERD, bao gồm esomeprazole và omeprazole, thuộc nhóm thuốc này. PPI hoạt động bằng cách ngăn chặn các tế bào sản xuất axit chính của dạ dày.
Thuốc đối kháng thụ thể H2, chẳng hạn như famotidine hoặc cimetidine cũng thường được sử dụng trong GERD. Loại thuốc này ngăn chặn các thụ thể histamine trên các tế bào sản xuất axit của dạ dày, tương tự như vậy làm giảm sản xuất axit của dạ dày và độ axit của các chất trong dạ dày. Trong khi hầu hết mọi người ghi nhận sự cải thiện các triệu chứng GERD với những loại thuốc này, nhưng cũng có khoảng 10 - 40% không nhận thấy hiệu quả.
Vào năm 2019, ranitidine, một chất đối kháng thụ thể H2 thường được sử dụng, đã bị rút khỏi thị trường Mỹ do lo ngại về mức độ thấp của một chất gây ô nhiễm được gọi là NDMA, có thể liên quan đến tăng nguy cơ ung thư khi tiêu thụ ở mức cao hơn khoảng thời gian dài.
Mặc dù vậy, đáng chú ý là thử nghiệm do Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ - FDA thực hiện không cho thấy mức NDMA tăng lên trong bất kỳ loại thuốc chống trào ngược nào khác được đề cập ở trên, những loại thuốc tiếp tục được coi là an toàn để sử dụng.
Gần đây cũng có nhiều lo ngại về mối liên hệ có thể xảy ra giữa thuốc PPI và những hậu quả có hại cho sức khỏe lâu dài như mất trí nhớ, bệnh thận, loãng xương, một số bệnh nhiễm trùng và suy giảm hấp thu một số vitamin và khoáng chất.
Có một cuộc tranh luận về việc liệu thuốc PPI có thực sự làm tăng nguy cơ đối với một số tác dụng phụ tiềm ẩn này hay không. Trong nhiều trường hợp, các nghiên cứu đã cho thấy các kết quả khác nhau, hoặc chỉ cho thấy nguy cơ gia tăng nhỏ khi sử dụng PPI.
Ví dụ, một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng không có nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ ở những người dùng PPI. Về tổng thể, PPI được coi là thuốc an toàn và trong những trường hợp có nhu cầu lâm sàng rõ ràng, lợi ích thường lớn hơn nguy cơ.
Các biện pháp thay đổi lối sống
Một nghiên cứu gần đây, được công bố trên tạp chí JAMA Internal Medicine, đã thu thập thông tin sức khỏe hai năm một lần từ hơn 100.000 y tá. Trong nhóm nghiên cứu này, các tác giả đã xác định một nhóm gồm 42.955 phụ nữ từ 42 - 62 tuổi không bị GERD vào năm 2007. Nhóm này sau đó được theo dõi trong 10 năm, trong đó 9.291 phụ nữ trong số này đã phát triển GERD.
Từ nghiên cứu, các tác giả xác định 5 yếu tố lối sống giúp giảm nguy cơ GERD, gồm:
- Trọng lượng cơ thể bình thường (chỉ số khối cơ thể từ 18,5 - 25).
- Không bao giờ hút thuốc.
- Hoạt động thể chất vừa phải đến mạnh ít nhất 30 phút mỗi ngày.
- Dùng không quá hai tách cà phê/ trà/ soda mỗi ngày.
- Một chế độ ăn uống lành mạnh (ăn nhiều trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu, thịt gia cầm và cá).
Nghiên cứu cho thấy mỗi trong số 5 yếu tố này có liên quan độc lập với việc giảm nguy cơ phát triển GERD. Trong 5 yếu tố, trọng lượng cơ thể bình thường có liên quan đến mức giảm khả năng phát triển GERD lớn nhất. Dựa trên kết quả của nghiên cứu này, những người đáp ứng cả 5 yếu tố có khả năng phát triển GERD trong 10 năm sau đó chỉ bằng một nửa so với những người không theo bất kỳ yếu tố nào.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng các biện pháp can thiệp vào lối sống có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa GERD.
Điều quan trọng cần lưu ý là ngay cả ở những người tuân thủ tất cả các biện pháp can thiệp, một số vẫn sẽ phát triển GERD. Đối với những người mắc bệnh này, có sẵn các loại thuốc hiệu quả để kiểm soát nó. Nhưng ngay cả đối với những người mắc GERD, các biện pháp can thiệp vào lối sống vẫn có thể đóng một vai trò quan trọng trong kiểm soát các triệu chứng. Do đó, các biện pháp can thiệp vào lối sống và thuốc chống trào ngược sẽ tiếp tục đóng vai trò bổ sung quan trọng trong việc quản lý GERD trong tương lai.