Cấp bách giành lại dòng chảy dữ liệu số
Kinhtedothi - Con số 99% dữ liệu hành vi số của người Việt đang nằm trong hệ sinh thái của các nền tảng nước ngoài, được đại biểu Quốc hội nêu tại phiên thảo luận dự án Luật Chuyển đổi số, đã làm nóng nghị trường và thổi bùng lo lắng trong dư luận.
Trong thời đại mà dữ liệu được ví như “mạch máu” của kinh tế số, việc tài nguyên cốt lõi này bị chảy ra ngoài lãnh thổ cho thấy Việt Nam đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng về chủ quyền số và năng lực cạnh tranh của DN nội địa.
Báo động đỏ về chủ quyền số
Phiên thảo luận về Luật Chuyển đổi số (chiều 1/12) tại Kỳ họp Quốc hội khóa XV đã ghi dấu một trong những cảnh báo mạnh mẽ nhất về an ninh dữ liệu từ trước tới nay khi đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nhân (Đoàn TP Hồ Chí Minh) thẳng thắn chỉ ra thực tế đáng báo động khi có tới 99% dữ liệu hành vi số của người Việt, từ đi lại, mua sắm đến giải trí, tiêu dùng đều nằm trong hệ sinh thái của các tập đoàn nước ngoài. Điều này khiến DN Việt rơi vào thế “đói dữ liệu”, yếu tố cốt lõi để huấn luyện AI, phát triển thuật toán và cá nhân hóa dịch vụ. Theo đại biểu Phạm Trọng Nhân, trong cuộc đua công nghệ, DN Việt “đang phải chạy trên sân của người khác”. Khi dữ liệu không thuộc quyền sở hữu và quản lý của Việt Nam, mọi nỗ lực phát triển nền tảng số nội địa đều bị suy yếu. “Không có dữ liệu Việt thì không thể có AI Việt” – đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nhân nhấn mạnh.
Dữ liệu chính là “nhiên liệu sống còn” của chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Ảnh: Phạm Hùng
Trong nền kinh tế số, mọi dịch chuyển từ tiêu dùng đến sản xuất đều dựa trên phân tích dữ liệu. Không có dữ liệu, DN sẽ không thể phát triển mô hình kinh doanh mới, không thể huấn luyện trí tuệ nhân tạo, không thể tối ưu thuật toán và càng không thể cạnh tranh trong một thị trường ngày càng dựa vào công nghệ. Thực tế hiện nay, từ thói quen mua sắm trực tuyến đến hành vi giải trí, từ việc đặt xe, đặt đồ ăn đến thanh toán điện tử, các nền tảng xuyên biên giới có khả năng thu thập, lưu trữ và phân tích dữ liệu người dùng Việt Nam trong phạm vi mà DN nội gần như không thể tiếp cận. Ứng dụng nội địa ít cơ hội cạnh tranh không chỉ vì hạn chế về vốn hay công nghệ, mà còn vì thiếu nguồn “nhiên liệu dữ liệu” để vận hành. Điều mà đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nhân nhấn mạnh “không có dữ liệu Việt thì không thể có AI Việt” phản ánh đúng tâm thế bị động của DN Việt trong cuộc đua công nghệ.
Trích dẫn
Dữ liệu chính là “nhiên liệu sống còn” của chuyển đổi số. Với DN, việc thiếu dữ liệu đồng nghĩa với việc mất khả năng cạnh tranh: không thể mở rộng dịch vụ số, khó phát triển thương mại điện tử và hạn chế đổi mới sáng tạo. Nhà nước cần chuyển mạnh từ tư duy “quản lý” sang “kiến tạo và dẫn dắt”, thiết lập hành lang pháp lý minh bạch, bảo vệ quyền sở hữu dữ liệu cho DN.
Sự phụ thuộc dữ liệu không chỉ ảnh hưởng tới DN công nghệ mà lan rộng sang các lĩnh vực thương mại điện tử, logistics, tài chính, ngân hàng và bán lẻ. Các DN thương mại điện tử trong nước thừa nhận họ chỉ có thể tiếp cận khách hàng thông qua những cổng dữ liệu của tập đoàn nước ngoài với chi phí rất cao. Khi quảng cáo phụ thuộc nền tảng ngoại, dữ liệu phân tích hành vi người dùng cũng bị khóa chặt, DN nội giống như “người lái xe bị bịt mắt”, không thể hiểu rõ khách hàng của chính mình.
Từ thực tiễn vận hành, ông Lê Văn Trí – CEO một công ty logistics thẳng thắn cho rằng, DN Việt đang ở trong cuộc đua tốc độ nhưng lại thiếu nhiên liệu. “Chúng tôi muốn đổi mới dịch vụ để phục vụ người Việt tốt hơn, nhưng dữ liệu về hành vi khách hàng lại nằm ngoài lãnh thổ. Muốn tiếp cận khách hàng Việt, DN Việt phải trả phí cho nền tảng nước ngoài. Đây là sự bất bình đẳng ngay từ điểm xuất phát” – ông Lê Văn Trí bộc bạch.
Từ góc độ DN nhỏ và vừa, TS Mạc Quốc Anh – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội cho rằng, dữ liệu là yếu tố sống còn của kinh tế số, nhưng hơn 90% DN Việt lại thiếu điều này. Khi DN thiếu dữ liệu, họ không có khả năng mở rộng thị trường, không thể phát triển thương mại điện tử, không đủ điều kiện để ứng dụng AI hay tự động hóa. Theo ông Mạc Quốc Anh, mất dữ liệu đồng nghĩa với mất cơ hội bứt phá và kéo theo cả nền kinh tế bị chậm lại.
Ở góc nhìn chuyên gia quốc tế, Giám đốc Điều hành Liên minh Dữ liệu Toàn cầu Joseph P. Whitlock cảnh báo rằng, việc bị hạn chế tiếp cận dữ liệu khiến DN nội địa mất lợi thế cạnh tranh và phải phụ thuộc vào công nghệ ngoại. Thậm chí, ngay cả cơ quan quản lý cũng gặp khó khi dữ liệu phân tán bên ngoài lãnh thổ số, dẫn tới chi phí giám sát, vận hành tăng cao.
Đáng lo ngại hơn, dòng dữ liệu chảy ra ngoài còn mang theo cả rủi ro về an ninh quốc gia. Khi hành vi của hàng chục triệu công dân nằm trong hệ thống phân tích của các tập đoàn nước ngoài, khả năng tự chủ trong hoạch định chính sách, bảo vệ thị trường và xử lý khủng hoảng của Việt Nam bị ảnh hưởng rõ rệt. Đây là lý do dư luận đặc biệt quan tâm.
Cần chiến lược dữ liệu quốc gia và khung pháp lý thống nhất
Dòng chảy dữ liệu hành vi của người Việt ra nước ngoài không còn là câu chuyện kỹ thuật hay quản lý đơn lẻ, mà là vấn đề mang tính chiến lược Quốc gia. Từ nghị trường Quốc hội đến DN, từ giới chuyên gia đến dư luận xã hội, tất cả đều nhìn thấy rõ rằng: nếu Việt Nam không hành động sớm, nền kinh tế số sẽ phát triển trên nền tảng thiếu bền vững, còn DN Việt sẽ bị rơi vào thế kém lợi thế ngay trên sân nhà.
Nhiều đại biểu Quốc hội chỉ ra rằng, hạ tầng số công cộng của Việt Nam từ định danh số, thanh toán số, chia sẻ dữ liệu đến nền tảng cloud đều thiếu chuẩn thống nhất. Đại biểu Bế Trung Anh (Đoàn Cao Bằng) cảnh báo, nếu tiếp tục tình trạng này, mọi nỗ lực chuyển đổi số sẽ thất bại vì dữ liệu mỗi nơi một kiểu, không có trục kết nối chung và không thể tạo ra giá trị tổng hợp. Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn TP Hồ Chí Minh) đề nghị các dịch vụ trên hạ tầng số công cộng phải minh bạch, không để xảy ra độc quyền và phải có cơ chế giám sát độc lập. Nếu không, nguy cơ “tư nhân hóa lợi ích, xã hội hóa chi phí” trong các dự án chuyển đổi số có thể xuất hiện, gây méo mó thị trường.
Ở tầm chiến lược, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược T.Ư Phạm Đại Dương nhận định, dữ liệu phải được xem là tài nguyên Quốc gia, tương đương đất đai hay khoáng sản. Ông Phạm Đại Dương nhấn mạnh, việc bảo vệ dữ liệu chính là bảo vệ chủ quyền Quốc gia và Việt Nam phải có cả hai trụ cột: năng lực kỹ thuật để làm chủ hạ tầng và khung pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu, quản trị và chia sẻ dữ liệu. Pháp luật phải thay đổi nhanh như công nghệ, nếu không sẽ bị lạc hậu ngay khi ban hành.
Trước yêu cầu cấp bách của thực tiễn, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, Luật Chuyển đổi số phải trở thành “luật khung thống nhất”, kết nối Chính phủ số – kinh tế số – xã hội số và khắc phục tình trạng phân mảnh hiện nay. Bộ trưởng Bộ KH&CN cảnh báo, nếu chậm trễ, hạ tầng dữ liệu Quốc gia sẽ bị phá vỡ ngay từ gốc và Việt Nam sẽ bị động trong cuộc cạnh tranh công nghệ.
Dự thảo luật đang được hoàn thiện theo hướng yêu cầu nền tảng xuyên biên giới tuân thủ quy định của Việt Nam, bao gồm lưu trữ dữ liệu người dùng Việt trên lãnh thổ, chia sẻ dữ liệu tổng hợp khi cơ quan quản lý yêu cầu và bảo đảm an toàn thông tin. Dữ liệu của người Việt phải được xử lý theo luật Việt Nam. Đây là nguyên tắc để bảo vệ an ninh số và lợi ích lâu dài. Song song với xây dựng khung pháp lý, Việt Nam cũng đang thúc đẩy phát triển hạ tầng dữ liệu Quốc gia, trong đó có trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng điện toán đám mây nội địa và kho dữ liệu dùng chung cho cơ quan Nhà nước. Dự kiến trong những năm tới, Việt Nam cũng sẽ xây dựng các cụm công nghệ dữ liệu lớn, các nền tảng số make-in-Vietnam có khả năng phân tích, xử lý và tái tạo giá trị dữ liệu ngay trong nước. Đây sẽ là yếu tố quan trọng để xây dựng hệ sinh thái dữ liệu quốc gia và hỗ trợ DN Việt giành lại lợi thế trên sân nhà.
Trích dẫn
Muốn kinh tế số bứt phá phải bảo đảm “dòng chảy dữ liệu” thông suốt, an toàn và minh bạch. Việc xây dựng luật hóa quản trị dữ liệu và thúc đẩy chia sẻ dữ liệu giữa Nhà nước – DN sẽ tạo nền tảng cho đổi mới sáng tạo và tăng trưởng bền vững.
![[Chuyển đổi số - trụ cột định hình phương thức quản lý mới] Bài 4: Thay đổi tư duy, phương thức quản trị và văn hoá phục vụ](https://resource.kinhtedothi.vn/resources2025/1/users/104/avatb4cds-1764697006.png)
[Chuyển đổi số - trụ cột định hình phương thức quản lý mới] Bài 4: Thay đổi tư duy, phương thức quản trị và văn hoá phục vụ
Kinhtedothi - Chuyển đổi số tại Hà Nội không chỉ là câu chuyện công nghệ, mà là câu chuyện về sự thay đổi tư duy lãnh đạo, phương thức quản trị và văn hóa phục vụ nhân dân. Với phương châm "Gần dân hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn", Hà Nội đang từng bước hình thành chính quyền số kiến tạo, xã hội số học tập và công dân số chủ động, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng Hà Nội văn hiến, văn minh, hiện đại, thông minh và nhân văn.
![[Chuyển đổi số - trụ cột định hình phương thức quản lý mới] Bài 1: Cầu nối quan trọng của chính quyền địa phương hai cấp](https://resource.kinhtedothi.vn/resources2025/1/users/104/avatab1-1764684236.jpg)
[Chuyển đổi số - trụ cột định hình phương thức quản lý mới] Bài 1: Cầu nối quan trọng của chính quyền địa phương hai cấp
Kinhtedothi - Chuyển đổi số đang trở thành nhân tố quyết định để kiến tạo một mô hình quản trị hiện đại, minh bạch và gần dân. Đặc biệt, sau khi chính quyền địa phương hai cấp chính thức vận hành, yêu cầu đặt ra không chỉ là tinh gọn bộ máy mà còn phải xây dựng được hệ thống điều hành thông suốt, dữ liệu liên thông và phục vụ hiệu quả cho người dân. Bởi thế, chuyển đổi số càng được xác định là “cầu nối” quan trọng trong vận hành phương thức quản lý mới tại địa phương. Và trong bước chuyển chung của cả nước, Hà Nội đang tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong, đi đầu với những cách làm, mô hình hiệu quả.

Chuyển đổi số từ kinh nghiệm quốc tế đến định hướng cho Hải quan Việt Nam
Kinhtedothi - Trước bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số toàn diện của nền kinh tế, từ những kinh nghiệm thành công của quốc tế là bài học định hướng cho Hải quan Việt Nam trong việc xây dựng mô hình Hải quan thông minh. Điều đó không chỉ để đạt được mục tiêu tạo thuận lợi thương mại mà còn bảo đảm quản lý rủi ro hiệu quả.






