Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Chế biến nước mát cho mùa nóng

TS Thu Hằng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Mùa nắng nóng, gia đình có thể tự chế biến những thức uống mát, tốt cho sức khỏe, dân gian thường gọi là “nước sâm”.

Nước sâm thường được nấu bằng rong biển, mía lau, rễ tranh, la hán quả, đường, ngoài ra tùy theo điều kiện, thói quen và sở thích, có thể nấu chung với râu bắp, hoa cúc, kỷ tử, mã đề… Nếu muốn vị gì làm chủ đạo thì tăng lượng của vị đó lên, ví dụ muốn có mùi hương hoa cúc rõ, người ra tăng lượng hoa cúc.

Người nấu có thể mua riêng từng loại hoặc mua những gói đã phối sẵn các vị về nấu theo hướng dẫn là có một nồi nước mát ngon, rẻ.

Rong biển: Có hàm lượng dinh dưỡng cao, có chứa nhiều khoáng chất, trong đó đặc biệt là lượng canxi, i ốt cao, hàm lượng cholesterol thấp, ngoài ra, chất fertile clement là chất không thể thiếu của tuyến giáp trạng, tốt cho thai phụ và trẻ em.

Theo y học cổ truyền, rong biển màu đen hoặc xanh, vị mặn, ngọt nhẹ, tính mát, quy vào kinh Thận, bổ được thận âm và thận khí. Nước rong biển vì vậy rất thích hợp để bồi dưỡng cho những người gầy yếu, tiêu hóa không tốt, thường cảm thấy nóng lòng bàn tay chân, tiêu bón, da dẻ không mềm mại, khô khát thích uống nước hoài.

Rễ tranh: Có màu trắng hoặc vàng nhạt, vị ngọt, tính hàn, vào các kinh Tâm, Phế, Tỳ, Vị và Bàng quang, có công năng thanh nhiệt (làm mát), lợi tiểu, thanh phế nhiệt (làm mát cái nóng ở vùng ngực, dùng tốt trên người có ho mà nóng ran ngực).

Và bởi vì có tính mát, lại lợi tiểu, nên người gầy, suy kiệt nhiều tuy có nóng trong người nhưng hạn chế dùng, vì tiểu tiện dễ góp phần giảm lượng nước trong cơ thể thêm, người sẽ càng nóng nảy.

Mía lau: Có thân nhỏ, mảnh hơn so với các loại mía khác, vị ngọt, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, trợ tỳ, kiện vị (giúp ăn ngon miệng), lợi đại tiểu trường (đi tiêu tiểu dễ), làm mát, giảm ho, giảm nóng, giải độc rượu, giải được các sức nóng của thuốc.

Đặc biệt, mía lau có tác sinh tân (làm mát bằng cách tạo thêm tân dịch) nên ít gây tác dụng phụ gây lợi tiểu quá mà mất nước, có thể dùng lâu dài. Tuy nhiên, người nóng trong người có ho, gặp lạnh ho lại tăng thì không nên dùng.

Râu bắp: Còn có tên gọi là ngọc mễ tu, có chứa nhiều loại vitamin. Râu bắp có vị ngọt, tính bình, quy kinh thận, bàng quang, có công năng lợi tiểu, tiêu thũng (giảm phù), thông lợi mật, thanh huyết nhiệt (làm giảm nóng nảy, bứt rứt, mụn nhọt), chỉ huyết. Đối với người mập, tăng acid uric, tăng cholesterol máu, dùng râu bắp làm nước uống hằng ngày rất tốt cho sức khỏe.

Hoa cúc: Vị ngọt đắng, tính hơi hàn, quy kinh Phế Can Thận. Hoa cúc có tác dụng giải cảm hạ sốt tiêu viêm, giải độc (làm giảm sưng viêm các mụn nhọt), làm sáng mắt. Vì vậy hoa cúc đặc biệt cần thiết cho những người mắt mờ, mắt hay khô cộm, hoặc dễ bị kích ứng mắt, đỏ mắt, mắt nhắm lại thấy nóng, người bị tăng huyết áp nhức mắt, nhức thái dương, nặng nửa đầu, khó ngủ, nửa đêm hay tỉnh.

Tuy nhiên người ăn uống khó tiêu, dễ lạnh bụng, ăn dễ trúng, dễ tiêu chảy, tay chân bủn rủn, yếu sức không nên dùng. Mướp đắng: Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, chống say nắng, sáng mắt, nhất là khi bị kiết lỵ do nóng.

Ngoài ra, trong điều kiện trời nóng, những người dễ bị ra mồ hôi hay bị nổi rôm sảy, ngứa, nấu nước khổ qua tắm một lần mỗi ngày làm giảm ngứa rõ rệt.

Ngoài các vị được kể trên, còn rất nhiều dược vị có tác dụng làm nước mát, vô cùng phong phú để lựa chọn như sắn dây, vối, atiso… Tuy nhiên, nên nhớ nguyên tắc chung: “Nước mát” nên có tính lạnh, mát, thường là có các vị đắng nhẹ, lờ lợ hoặc ngọt nhẹ, tính thanh nhiệt, nên người tạng hàn (dễ bị lạnh, dễ cảm, ăn uống hay trúng…) hoặc đang suy nhược cơ thể, cũng cần dùng cẩn thận.

Nước mát tác dụng lợi tiểu, vì vậy nếu dùng lâu dài thay nước uống có thể mất cân bằng điện giải, kém hấp thu một số vi khoáng như canxi, kali…, dù là tốt, cũng không thể dùng thường xuyên, không có loại nước làm mát nào tốt hơn nước tinh khiết đun sôi để nguội.