Thuốc&Dinh dưỡng:

Củ gừng phòng và chữa bệnh mùa lạnh

BS Nguyễn Phú Lâm
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Theo y học cổ truyền, gừng có vị cay, tính ấm, vào 3 kinh Phế, Tỳ, Vị, có tác dụng tán hàn giải biểu, ấm dạ dày, tiêu nước, dịu ho, cầm nôn, tiêu đàm, giải độc. Gừng được dùng làm thuốc từ hơn 2.000 năm nay.

Gừng còn có tên khác là sinh khương, can khương, bào khương...; tên khoa học Zingiber officinale Rose, họ Gừng (Zingiberaceae); bộ phận dùng làm thuốc là thân rễ (củ gừng).

ành phần chủ yếu của nhóm chất cay là zingeron, shogaol và zingerol, trong đó gingerol chiếm tỉ lệ cao nhất. α-camphen, β-phelandren, eucalyptol và các gingerol. Cineol trong gừng có tác dụng kích thích khi sử dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn. Hợp chất gingerol có trong gừng, giúp hỗ trợ nhiều tình trạng sức khỏe khác nhau, bao gồm tiêu hóa, giảm buồn nôn, chống lại bệnh cúm và cảm lạnh thông thường.

Gừng qua chế biến sẽ biến đổi gingerol thông qua phản ứng aldol ngược thành zingerone, ít hăng hơn và có mùi thơm cay ngọt. Khi gừng được sấy khô hoặc làm nóng nhẹ, gingerol trải qua phản ứng mất nước tạo thành shogaols, hăng gấp đôi gingerol. Điều này giải thích tại sao gừng khô hăng hơn gừng tươi. Shogaol, gingerol được chứng minh có hiệu quả trong việc tăng cường nhu động ruột để di chuyển thức ăn dọc theo đường tiêu hóa.

Gừng sống còn gọi là sinh khương có tác dụng phát tán phong hàn, chống nôn ói. Gừng khô còn gọi là can khương, có tính nóng hơn sinh khương, có thể làm ấm tỳ vị. Vỏ gừng được gọi là khương bì có tác dụng lợi tiểu; còn dùng tiêu khương (gừng khô thái lát dày, sao sém vàng, đang nóng, vẩy vào ít nước, đậy kín, để nguội); thán khương (gừng khô thái lát dày, sao cháy đen tồn tính). Trong kỹ thuật bào chế, gừng cũng có thể giúp cho thầy thuốc đạt được một số mục đích quan trọng. Sinh địa nấu với gừng sẽ hạn chế bớt tính mát. Bán hạ chế với gừng để giải độc. Một số loại thuốc khác như: Sâm, đinh lăng... cũng thường được tẩm gừng, sao qua để tăng tính ấm và dẫn vào phế vị.

Dân gian từ lâu đã dùng gừng tươi chữa cảm mạo, phong hàn, nhức đầu, ngạt mũi, ho có đờm, nôn mửa, bụng đầy trướng. Dùng làm thuốc kích thích tiêu hóa, tăng bài tiết, sát trùng, hành thủy, giải độc ngứa do bán hạ, cua cá, chim, thú độc. Ngày dùng 4 - 8g, dạng thuốc sắc uống. Còn dùng làm thuốc xoa bóp và đắp ngoài chữa sưng phù, vết thương, giảm đau.
Gừng có vị cay nóng, tính ấm nên khi ăn gừng tươi có tác dụng làm giãn các mao mạch, thúc đẩy quá trình tiết mồ hôi, giúp làm ấm cơ thể từ bên trong. Phương pháp này không chỉ hỗ trợ tuần hoàn máu tốt hơn mà còn có thể chống lại virus hợp bào hô hấp, ngăn cản các bệnh liên quan đến đường hô hấp. Dân gian cũng sử dụng gừng để cạo gió trị cảm lạnh.

Gừng nướng chữa đau bụng, lạnh bụng, đi ngoài.

Gừng khô, gừng sao chữa đau bụng lạnh, đầy trướng không tiêu, thổ tả, chân tay giá lạnh, mạch nhỏ, đàm ẩm, ho suyễn và thấp khớp. Ngày dùng 4 - 20g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Chữa ho lâu ngày và ợ: Gừng sống giã lấy nước cốt (1 thìa) trộn mật ong (1 thìa). Đun nóng, uống dần ít một.

Bệnh tiêu hóa: Mùa lạnh chúng ta cũng thường bị tình trạng lạnh bụng, khó tiêu. Củ gừng tươi có thể hỗ trợ điều trị một số bệnh về đường tiêu hóa như đầy hơi, khó tiêu, ợ hơi, trào ngược dạ dày, buồn nôn, giúp tăng cảm giác thèm ăn.

Đau lưng, đau vai gáy do lạnh: Có thể dùng rượu gừng làm thuốc xoa bóp,
massage cơ để cơ bắp được thả lỏng hơn. Hoặc chườm nóng vai gáy bằng gừng rang với muối hột.

Đau xương khớp mùa lạnh: Ngâm chân, tay hoặc tắm với nước thảo dược có thành phần là gừng tươi. Hoặc sử dụng gừng rang với muối hột chườm lên vùng đau.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần