Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Kết hôn với người đang chấp hành hình phạt tù được không?

H.T
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Bạn trai tôi đang chấp hành phạt tù có thời hạn. Xin hỏi, nếu đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn thì chúng tôi có được chính quyền chấp nhận cho đăng ký kết hôn để chính thức trở thành vợ chồng hay không?

Nguyễn Thị Quyên, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật (Sở Tư pháp Hà Nội) trả lời:

Theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Các hành vi bị nghiêm cấm, theo khoản 2 Điều 5 của Luật này bao gồm:

“a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.

Có thể thấy, pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện nay không cấm người đang chấp hành hình phạt tù kết hôn hay người khác kết hôn với người đang chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014 như sau:

“1. Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn.

2. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.

Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc”.

Có nghĩa là, về nguyên tắc hai bên nam nữ phải nộp tờ khai đăng ký kết hôn và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn, cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn… Trong khi, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, “người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”. Bởi vậy, không thuộc trường hợp cấm kết hôn, nhưng người đang chấp hành án phạt tù rất khó thực hiện được quyền kết hôn.

Pháp luật về tạm giữ, tam giam có quy định về việc trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Đó là việc đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra khỏi cơ sở giam giữ trong thời gian nhất định theo lệnh, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền để thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự, khám bệnh, chữa bệnh, thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự, thực hiện quyền, nghĩa vụ khác do luật định.

Chỉ có điều, việc trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được thực hiện khi có lệnh trích xuất của người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này. Đó là:

“a) Để phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;

b) Đưa đi khám bệnh, chữa bệnh, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần;

c) Gặp thân nhân, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp để thực hiện một số quyền, nghĩa vụ do luật định;

d) Người nước ngoài bị tạm giữ, tạm giam tiếp xúc lãnh sự hoặc tiếp xúc với các tổ chức nhân đạo theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo sự thỏa thuận giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước có người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc vì lý do đối ngoại đối với từng trường hợp cụ thể”.

Các trường hợp nêu trên, trong đó có trích xuất người đang bị tạm giam, tạm giữ để thực hiện một số quyền, nghĩa vụ do luật định, nhưng chỉ để gặp thân nhân, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Ngoài ra, việc trích xuất là để phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đưa đi khám bệnh, chữa bệnh, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần… Không có quy định cho phép trích xuất người đang chấp hành hình phạt tù ra ngoài để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Cho nên, người đang chấp hành hình phạt tù không thể thực hiện được thủ tục này.