Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các siêu cường và biến động địa chính trị ngày càng rõ, Việt Nam đang chứng tỏ khả năng giữ thế cân bằng: vừa bảo vệ độc lập, chủ quyền, vừa chủ động hội nhập sâu rộng trong hệ thống đa phương quốc tế.
Khẳng định từ các lãnh đạo cấp cao cùng những phân tích của nhiều chuyên gia kỳ cựu cho thấy hội nhập không chỉ là xu thế mà là yêu cầu sống còn để nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia tại Đại học New South Wales, với nhiều năm nghiên cứu đối ngoại Việt Nam, nhận xét rằng nước này đang có bước đi rõ ràng và quyết liệt trong việc mở cửa kinh tế, tham gia hiệp định quốc tế và củng cố thể chế để hội nhập sâu hơn.
Theo ông, bằng cách giữ vị thế trung lập, Việt Nam vừa tránh bị cuốn vào cạnh tranh siêu cường, vừa tranh thủ được lợi ích kinh tế, công nghệ, quốc phòng từ nhiều phía.
Ông nhấn mạnh: “Việt Nam ngày càng tự tin hơn trong việc thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện”.
Giáo sư James Borton, nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins, một chuyên gia khác am hiểu về Việt Nam, cho rằng trong trật tự toàn cầu phân mảnh, Việt Nam đang bước đi trên “sợi dây căng”. Bối cảnh đó thúc đẩy Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện chính sách ngoại giao linh hoạt, đặt lợi ích quốc gia trên hết.
Sự nhìn nhận của hai học giả này giúp hiểu rõ hơn về cách thức Việt Nam đang chuyển mình, không chỉ là tiếp nhận mà còn đóng góp, đề xuất và định hình luật chơi quốc tế.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 59 – NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được xem như quyết sách đột phá, khẳng định hội nhập toàn diện, sâu rộng, hiệu quả và nâng tầm.
Văn kiện nhấn mạnh nội lực là nền tảng cho mọi định hướng hội nhập; Việt Nam không chỉ tiếp nhận mà còn chủ động đóng góp, không chỉ thụ động đón nhận mà khởi xướng, định hình cơ chế đa phương.
Trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình tới thịnh vượng, hùng cường, ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh’ đòi hỏi phải có tâm thế, vị thế mới và tư duy, cách tiếp cận mới về hội nhập quốc tế.”
Đặc biệt, tại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh ngày 2/9/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Chúng ta kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ, quân sự, đối ngoại và đặc biệt là sức mạnh lòng dân”.
Trong hành trình bảo vệ nền độc lập và phát triển ấy, “ngoại giao đa phương là một cấu phần không thể tách rời” của nền ngoại giao Việt Nam như lời của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Hoàng Giang. Ông nhắc lại định hướng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào năm 1945.
Những khẳng định này cho thấy lãnh đạo cấp cao đặt ra yêu cầu hội nhập phải đi đôi với bản sắc, chủ quyền và nội lực.
Việt Nam đã mở cửa mạnh mẽ nhiều thập kỷ qua. Như GS. Carl Thayer ghi nhận, đất nước “từng bước tạo dựng vai trò và vị thế quốc tế thông qua việc mở cửa kinh tế”, gia nhập ASEAN, APEC, WTO và ký các hiệp định thương mại tự do.
Nghị quyết 59 định hướng rõ vai trò chủ động hơn của Việt Nam trong ASEAN, từ việc triển khai Tầm nhìn ASEAN 2045 đến tham gia xây dựng các cơ chế vùng mới nổi, các hiệp định thương mại đa phương, tổ chức quốc tế mới. Với Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực mà còn thể hiện trách nhiệm củng cố vai trò trung tâm điều phối khu vực.
Nghị quyết 59 yêu cầu Việt Nam thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ, đóng góp thiết thực cho về biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, y tế, công nghệ toàn cầu. Việt Nam đã hai lần giữ vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, giữ vai trò chủ tịch luân phiên trong ASEAN và thiết lập đối tác chiến lược toàn diện với nhiều quốc gia – đây là những dấu hiệu rõ rệt của vị thế quốc tế được củng cố.
Song song với hội nhập, Việt Nam đạt tiến bộ xã hội: giảm nghèo, tăng tuổi thọ, mở rộng giáo dục, y tế, nâng cao chất lượng cuộc sống – minh chứng cho nội lực. GS. Carl Thayer nhấn mạnh Việt Nam đã chuyển mình từ quốc gia bị chiến tranh tàn phá thành nước thu nhập trung bình thấp nhưng có nhiều thành tựu đáng kể.
Việc tham gia các hiệp định, công ước quốc tế với nguyên tắc cân bằng lợi ích, rủi ro và năng lực trong nước giúp Việt Nam giữ bản sắc trong hội nhập sâu rộng, nhất là khi hợp tác quốc tế đặt ra yêu cầu cao về môi trường, lao động, dữ liệu, an ninh mạng
Với những đòi hỏi đó, việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương trở nên vô cùng quan trọng trong thực hiện cam kết quốc tế. Thật vậy, Thứ trưởng Đặng Hoàng Giang chỉ ra rằng triển khai hội nhập không chỉ của cấp trung ương mà cần sự tham gia chủ động của địa phương, công chức, cộng đồng để cam kết quốc tế được thực thi thực chất.
Việc cân bằng giữa mở cửa và bảo vệ lợi ích quốc gia trong các vấn đề như Biển Đông càng đòi hỏi sự thận trọng, uyển chuyển. GS. James Borton ghi nhận Việt Nam đã và cần tiếp tục sử dụng ngoại giao thông minh, chủ động trong các diễn đàn quốc tế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp dựa trên luật lệ quốc tế.
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần tiếp tục giữ nguyên tắc độc lập, tự chủ để không bị ép buộc vào liên minh quân sự, không chọn phe, tận dụng các quan hệ đối tác đa phương, hợp tác có lợi để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Đồng thời, Việt Nam cần phát huy sức mạnh mềm như văn hóa, giáo dục, ngoại giao Nhân dân để xây dựng hình ảnh quốc tế đáng tin cậy.
Song song với đó, cần đầu tư mạnh vào đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển khoa học – công nghệ, đào tạo nhân lực, nâng cao ngoại ngữ và chuyên môn quốc tế cho cán bộ, để khi tham gia cơ chế toàn cầu, Việt Nam có đủ khả năng đàm phán và đưa ra sáng kiến thay vì chỉ đáp ứng.
Một khía cạnh quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật để tương thích cam kết quốc tế nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi quốc gia, từ chủ quyền biển đến luật đất đai, đầu tư, bảo vệ quyền lợi người dân, doanh nghiệp.
Theo GS. Carl Thayer, Việt Nam không còn là quốc gia bị bao vây, chịu ảnh hưởng mạnh bởi chính sách bên ngoài; thay vào đó đang vươn lên nhờ nội lực và ứng xử như đối tác quốc tế chủ động, có trách nhiệm.
Thế cân bằng là lựa chọn chủ động: độc lập để giữ gìn giá trị, bản sắc, chủ quyền; hội nhập để tận dụng cơ hội, tăng sức mạnh mềm, mở rộng ảnh hưởng, nâng cao vị thế quốc tế.
Quan sát của GS. Carl Thayer và James Borton không chỉ là đánh giá bên ngoài mà còn là tín hiệu thế giới nhận thấy Việt Nam đi đúng hướng với chính sách nhất quán: vừa giữ vững độc lập, vừa hội nhập sâu rộng.
Với lời khẳng định mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm về “tâm thế, vị thế mới và tư duy, cách tiếp cận mới” trong hội nhập, cùng nhắc nhở của Thứ trưởng Đặng Hoàng Giang về vai trò thiết yếu của ngoại giao đa phương, Việt Nam đang có chiến lược hành động được hoạch định rõ ràng.
Từ những nhận định khách quan, Việt Nam nắm trong tay cơ hội lớn để thể hiện thế cân bằng giữa độc lập và hội nhập, giữa nguyên tắc và linh hoạt, giữa nội lực và hợp tác quốc tế – nếu mỗi chính sách, sáng kiến và bước đi được thực thi nghiêm mang tính chiến lược, đậm bản sắc và có kiểm soát.
Để củng cố thế độc lập, tự chủ, Việt Nam không chỉ cần trở nên giàu mạnh mà còn cần xây dựng vị thế một đối tác có tiếng nói và uy tín trên trường quốc tế.
Bài 1: Việt Nam trên hành trình hội nhập: Từ hạt gạo đến tầm vóc quốc gia
Bài 2: Việt Nam hội nhập toàn cầu: Từ “ngoại giao mượn áo” tới đối tác tin cậy trên trường quốc tế
Bài 4 (Bài cuối): Độc lập và hội nhập: thế cân bằng Việt Nam






