



Trong căn bếp nhỏ ở Hà Nội, bà Bùi Thị Hiếu mở hộp sữa bột, tỉ mỉ chia đều vào bốn chiếc cốc thủy tinh cho các cháu nội. Vừa quấy sữa, bà vừa nhớ về những năm tháng quá khứ mấy chục năm trước khi cả khu phố sống trong khó khăn, một ly sữa cho con cháu là điều rất hiếm hoi.
"Tem phiếu đổi được ít thịt, còn từng thìa mỡ lợn cũng phải chắt chiu để nấu mắm ớt hay rang tóp chia phần cho cả nhà," bà Hiếu chia sẻ.
Lúc đó, một bát phở là món quà xa xỉ,” bà kể. “Nhiều người còn mua nước phở về để ăn cùng cơm nguội, vừa có cảm giác được ăn phở vừa giúp no lâu."
Câu chuyện bà Hiếu kể lại không chỉ là kỷ niệm cá nhân đơn lẻ, mà là lát cắt chân thực về một giai đoạn lịch sử khắc nghiệt mà người dân đất Hà Thành phải trải qua trong những năm 1980. Ký ức “ăn độn” khoai sắn vẫn còn đậm nét trong tâm trí nhiều thế hệ.
Không riêng Hà Nội, nhiều địa phương khác cũng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Sau chiến tranh, nông nghiệp Việt Nam chủ yếu dựa vào sản xuất thủ công, trông cậy vào sức kéo trâu bò, thiếu máy móc và phân bón nên năng suất thấp. Cơ chế tem phiếu chưa tạo động lực mở rộng sản xuất, khiến việc canh tác đầy rẫy ràng buộc.
Nhớ lại những tháng năm thiếu thốn ấy, GS.TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, vẫn không khỏi bùi ngùi.
“Mọi lo toan khi ấy đều xoay quanh chuyện lương thực. Mọi giá trị quy ra thóc. Sổ gạo là vật bất ly thân, mất sổ là coi như mất tài sản quý giá nhất.”

Thời điểm đó, sản lượng lúa gạo toàn quốc chỉ khoảng 20 triệu tấn mỗi năm, một con số khiêm tốn. Mỗi người được phân phối 10 đến 18 kg gạo mỗi tháng, tùy nơi cư trú và công việc.
Vậy mà 40 năm sau, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Sáu tháng đầu năm 2025, xuất khẩu gần 5 triệu tấn, gạo Việt có mặt tại hơn 150 quốc gia, từ châu Á đến Nhật Bản hay các nước thuộc Liên minh châu Âu.
Các giống ST24, ST25, nổi tiếng bởi hương thơm, độ dẻo và tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt, nay xuất hiện trên kệ siêu thị ở Tokyo hay Paris. Không những vậy, ngành lúa gạo Việt Nam cũng chuyển mình mạnh mẽ theo hướng xanh và bền vững. Tháng 6 vừa qua, Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An (trụ sở tại Cần Thơ) đã xuất khẩu 500 tấn gạo Japonica mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sang Nhật Bản.
Đây là lần đầu tiên gạo đạt chuẩn phát thải thấp của Việt Nam hiện diện tại thị trường khó tính này, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hành trình xây dựng nền nông nghiệp sạch, thân thiện môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nhìn lại hành trình phát triển kỳ diệu ấy, GS Lê Huy Hàm khẳng định đây là kết quả của nỗ lực tập thể, từ chính phủ, các cơ quan chuyên môn, doanh nghiệp, các nhà khoa học cho đến từng người dân.
Bà Nguyễn Thị Giang, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ, bày tỏ niềm tự hào: “Nếu như trước đây, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu gạo sang thị trường gần, thiếu ổn định và chưa xây dựng được thương hiệu rõ nét, thì giờ đã vươn lên thành một 'cường quốc gạo'.”


Trước những thách thức ngổn ngang, cuối những năm 1980, Việt Nam khởi động công cuộc đổi mới, trong đó có chính sách giao đất cho nông dân.
Bà Giang cho biết chương trình đổi mới đất đai năm 1988 đã trao quyền sử dụng đất lâu dài cho người dân, tạo đòn bẩy để họ yên tâm đầu tư vào sản xuất.
Cùng với đó là các chính sách như Nghị định 83 về khuyến nông, Nghị định 98 về liên kết sản xuất - tiêu thụ, các gói tín dụng ưu đãi và hướng dẫn kỹ thuật, giúp nông dân tiếp cận giống, phân bón và đầu tư hệ thống thủy lợi, cơ giới hóa đồng ruộng.
Nhờ đó, đất nước đã đạt được bước tiến vượt bậc, với việc năng suất lúa tăng từ 2 tấn/ha lên 3 tấn/ha, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn tạo nền tảng cho xuất khẩu. Năm 1990, Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 20 triệu tấn lương thực, mở ra cơ hội khẳng định vị thế mới trên thị trường quốc tế.
“Ngành lúa gạo đã trưởng thành vượt bậc. Gạo Việt không còn chỉ là thực phẩm cứu đói, mà đã trở thành biểu tượng của thương hiệu quốc gia. Một hành trình thực sự là kỳ tích” - GS.TS Lê Huy Hàm khẳng định với phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị.

Bên cạnh chính sách, yếu tố công nghệ cũng đóng vai trò then chốt. Theo GS Hàm, khoa học - công nghệ chính là động lực quyết định giúp Việt Nam nâng tầm ngành lúa gạo. Viện Di truyền Nông nghiệp đã chủ động mời Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) đặt văn phòng tại Việt Nam, làm cầu nối chuyển giao công nghệ hiện đại.
Từ đây, Việt Nam có cơ hội tiếp cận nguồn gen chịu mặn, chịu ngập, kháng sâu bệnh và tiếp thu quy trình canh tác bền vững, giảm phát thải. Nhiều giống lúa mới có thể sống trong môi trường ngập sâu đến 20 ngày hoặc chịu được mặn 0,5%, yếu tố sống còn trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Kết quả, năng suất bình quân hiện đạt hơn 6 tấn/ha, gấp ba lần so với trước đổi mới. Nhiều vùng thậm chí đạt từ 7 đến 8 tấn/ha. Chất lượng gạo cũng được cải thiện rõ rệt, với đặc tính thơm, dẻo, mềm, phù hợp xuất khẩu cao cấp và đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn cũng như môi trường kiểm duyệt khắt khe.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi và lai tạo giống mới, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, vừa tăng khả năng chống chịu hạn - mặn, tạo nền tảng vững chắc cho nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hiện nay, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp đang được triển khai tại Đồng bằng Sông Cửu Long, hướng đến mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu.
Theo GS.TS Lê Huy Hàm, đề án này được kỳ vọng là “tấm thông hành” đưa gạo Việt chinh phục các thị trường khó tính, đồng thời góp phần thực hiện cam kết giảm phát thải ròng (net zero) của quốc gia.
Bà Giang nhận định đây là bước đi mang tính chiến lược, vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước, vừa góp phần ổn định nguồn cung toàn cầu, vừa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường.
Là một trong những địa phương tiêu biểu trong sản xuất lúa gạo của vùng, TP Cần Thơ ghi nhận diện tích gieo trồng năm 2024 đạt 212.614 ha, sản lượng thu hoạch hơn 1,33 triệu tấn. Hiện TP đang tích cực triển khai Đề án phát triển vùng chuyên canh hiện đại, hiệu quả và thân thiện với môi trường, hướng tới nâng cao giá trị và phát triển bền vững ngành lúa gạo.
TP áp dụng đồng bộ nhiều kỹ thuật tiên tiến như “1 phải 5 giảm” (phải sử dụng giống lúa chất lượng; giảm lượng giống gieo, phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật, lượng nước tưới và thất thoát sau thu hoạch) và tưới ngập khô xen kẽ (AWD), giúp tiết kiệm nước, giảm phát thải khí nhà kính. Cơ giới hóa sản xuất và sử dụng phân sinh học cũng góp phần nâng cao năng suất, giảm chi phí và phát triển nông nghiệp bền vững.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội lớn để mở rộng thị trường và nâng cao giá trị gia tăng. Theo GS.TS Lê Huy Hàm, nhờ các hiệp định thương mại tự do (FTA), gạo Việt Nam đã thâm nhập ngày càng sâu vào thị trường toàn cầu.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, vùng sản xuất lúa gạo trọng điểm với diện tích gieo cấy ước đạt gần 3,8 triệu ha và sản lượng khoảng 24 triệu tấn vào năm 2025, hội nhập đang tạo ra động lực mạnh mẽ để đổi mới sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong khi đó, bà Giang khẳng định hội nhập không chỉ mở rộng thị trường mà còn thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, thu hút đầu tư vào sản xuất và chế biến, qua đó nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh và xây dựng thương hiệu gạo Việt trên thị trường quốc tế..
Ngoài ra, cũng không thể không nhắc đến vai trò của doanh nghiệp, những chủ thể đang góp phần quan trọng đưa lúa gạo Việt Nam vươn ra thị trường thế giới. Các doanh nghiệp như Lộc Trời, Trung An, Tân Long giữ vai trò cầu nối thiết yếu, gắn kết người nông dân với thị trường, từ đó nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cho hạt gạo Việt.
Theo GS Hàm, sau bốn thập kỷ phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành vượt bậc, từ chỗ loay hoay tìm đầu ra nay đã chủ động dẫn dắt thị trường và có đủ năng lực cạnh tranh quốc tế.
Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Gạo Trung An, chia sẻ hội nhập là thời cơ lớn, nhưng doanh nghiệp phải biết tận dụng đúng lúc.

Ngay sau khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) được ký năm 2020, Trung An là doanh nghiệp đầu tiên xuất khẩu gạo sang châu Âu với thuế suất 0%. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cũng mở ra nhiều thị trường mới, đặc biệt là các nước phát triển trong khu vực Thái Bình Dương.

Theo ông Bình, ưu đãi thuế quan chỉ là bước khởi đầu. Muốn đi xa, doanh nghiệp phải đầu tư bài bản từ giống, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm đến truy xuất nguồn gốc. Các công ty không nên chạy theo số lượng, mà chú trọng chất lượng và thiết kế sản phẩm phù hợp từng thị trường, kể cả những yêu cầu khắt khe như Nhật Bản hay châu Âu.
Hiện, Trung An đang phát triển nhiều dòng gạo chuyên biệt, bán “giải pháp phù hợp” thay vì chỉ bán “gạo”, với thiết kế riêng cho từng thị trường mục tiêu.
Dù đạt nhiều thành tựu, ngành lúa gạo Việt Nam đang đối mặt thách thức lớn chưa từng có như biến đổi khí hậu, yêu cầu truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm và cạnh tranh giá với Thái Lan, Ấn Độ.
Khoảng 12% nước thải nông nghiệp chưa được xử lý, hạ tầng sau thu hoạch còn yếu, thất thoát sau thu hoạch cao. Trong khi đó, thị trường toàn cầu chuyển sang ưu tiên gạo hữu cơ, đặc sản, carbon thấp - lĩnh vực Việt Nam còn mới mẻ.
Theo GS Lê Huy Hàm, để giữ vững vị thế và tiến xa hơn, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư cho khoa học công nghệ, phát triển giống phù hợp thị hiếu và môi trường, hướng tới canh tác xanh, chi phí thấp, chất lượng cao, thay vì hài lòng với thành tựu hiện tại.
Trong khi đó, bà Giang kỳ vọng cácvùng sản xuất lúa gạo sẽ phát triển theo hướng chất lượng cao, phát thải thấp và xây dựng được thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, bà mong muốn Trung ương tiếp tục hỗ trợ chính sách tín dụng ưu đãi cho nông dân chuyển đổi mô hình sản xuất tuần hoàn, hữu cơ, giảm phát thải; hỗ trợ giống, phân sinh học, công nghệ sau thu hoạch và chi phí chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào số hóa vùng nguyên liệu, nâng cấp hệ thống thủy lợi, kho bảo quản, logistics và chế biến để giảm tổn thất sau thu hoạch.
Bà cũng đề nghị đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường và xây dựng thương hiệu gạo Việt gắn với truy xuất nguồn gốc, nhằm tiếp cận các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản và Mỹ.
