"Có những năm tháng, chúng tôi đi dự hội nghị quốc tế mà phải mượn quần áo, tiền công tác chỉ vài chục cent một ngày,” nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nhớ lại.
Những ký ức tưởng như rất nhỏ ấy lại khắc họa cả một giai đoạn: Việt Nam thời điểm mới “khai thiên lập quốc”, bị bao vây cấm vận, nhưng ý chí trên mặt trận ngoại giao - hội nhập của ta chưa bao giờ lay chuyển.
Nói về chặng đường ngoại giao và hội nhập mà thế hệ trước đã đi qua, ông Nguyễn Dy Niên nhớ lại những thời thời điểm vô cùng khó khăn của đất nước.
Ra đời vào tháng 8/1945, ngành ngoại giao Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập và đặt nền móng. Ngay từ đầu, Đảng và Bác Hồ coi trọng vai trò ngoại giao như một phương thức bảo vệ lợi ích dân tộc.
Trong giai đoạn 1945 - 1946, đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đó là thời điểm chúng ta phải đối mặt cùng lúc với 66.000 quân phát xít Nhật, 50.000 quân Pháp núp bóng thực dân Anh, 20 vạn quân Tưởng. Khi đó, Bác Hồ nhận thấy rằng chỉ có ngoại giao có thể hoá giải tình thế nguy cấp.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Geneva 1954, ngoại giao Việt Nam bắt đầu bước ra thế giới. Bước vào giai đoạn thực thi Hiệp định Geneva, Bác Hồ nhận thấy rõ ý định của Mỹ là thay thế Pháp. Khi đó, Việt Nam mới chỉ có quan hệ ngoại giao với rất ít quốc gia, nhưng chúng ta đã khiến thế giới phải lắng nghe, các nước phải thừa nhận chính nghĩa của Việt Nam.
Đến giai đoạn Mỹ leo thang chiến tranh, Bác Hồ xác định, Việt Nam phải đánh thắng trên chiến trường thì ngoại giao mới có thể giành chiến thắng trên bàn đàm phán.
Suốt 5 năm diễn ra Hội nghị Paris, Việt Nam kết hợp ngoại giao với đấu tranh chính trị - quân sự, cuối cùng buộc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam, rút quân đội, chuyên gia và căn cứ quân sự khỏi Việt Nam.
Nói về tinh thần tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao nhớ lại những năm tháng khó khăn đến mức các nhà ngoại giao phải mượn quần áo từ Bộ Tài chính. “Phí công tác của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch chỉ có 50 cent mỗi ngày, còn những người khác chỉ được 20 cent. Nhưng anh em vẫn quyết tâm đấu tranh để đạt được những thành quả như vậy”, ông Nguyễn Dy Niên chia sẻ.
Có thể nói, trong thời gian đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cùng với các mặt trận chính trị và quân sự, ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược.
“Đối với một quốc gia như Việt Nam - trong lịch sử phải tự vệ bằng quân sự trước những kẻ thù lớn mạnh hơn - ngoại giao luôn là một công cụ quan trọng không chỉ để ngăn ngừa xung đột mà còn để thúc đẩy lợi ích quốc gia thông qua các biện pháp hòa bình”, Giáo sư Nicholas Chapman từ Đại học Tohoku (Nhật Bản) nhận định với Kinh tế & Đô thị.
“Từ thân phận một nước bị xem là 'nhược tiểu', ngày nay, trong con mắt bạn bè quốc tế, Việt Nam là một quốc gia tầm trung có vai trò, vị thế ngày càng tăng trong ASEAN và ở khu vực, có đóng góp ngày càng chủ động, tích cực vào việc tham gia giải quyết các công việc chung của cộng đồng quốc tế”, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định.
Sau khi nước nhà thống nhất, ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong xây dựng hòa bình, đi đầu đưa đất nước dần hội nhập vào khu vực và quốc tế, đặc biệt qua các cột mốc lịch sử như gia nhập ASEAN, APEC, WTO... và ký kết, tham gia hàng trăm thỏa thuận, điều ước quốc tế.
Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, xây dựng được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 37 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Đảng ta cũng đã có quan hệ với 259 chính đảng tại 119 nước.
GS Chapman nhận định, hiện Việt Nam là một quốc gia hàng đầu về thương mại toàn cầu, với GDP bình quân đầu người tăng lên gần 5.000 USD và nằm trong top 20 về kim ngạch thương mại, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và dòng kiều hối. 17 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) góp phần kết nối Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế lớn trên thế giới và gắn kết chặt chẽ với chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
“Những con số này nói lên tất cả”, ông Chapman cho biết.
Nhưng ngoài những con số, có một số khoảnh khắc mang tính bước ngoặt nổi bật trong hành trình hội nhập toàn cầu của Việt Nam.
Đất nước hình chữ S đã lần thứ hai được bầu làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 với 192/193 phiếu bầu – con số cao kỷ lục. Đồng thời, việc Việt Nam thành công trong vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020 trong bối cảnh đại dịch Covid-19 là một thành tựu ngoại giao quan trọng.
Điểm lại những dấu mốc quan trọng trên con đường hội nhập quốc tế của nước ta, Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh - nhà ngoại giao có hơn 40 năm trong ngành cho rằng, những thành tựu trưởng thành trong phát huy trí tuệ, sự chủ động, cùng với quá trình chuyên nghiệp hóa lực lượng đã góp phần nâng cao sức mạnh mềm của đất nước.
Ngoài ra, qua nhiều thập kỷ từ khi chính thức gia nhập Liên Hợp quốc, ngoại giao Việt Nam cũng đã thể hiện sự bài bản, suy tính và khéo léo, hiệu quả trong kết hợp khuôn khổ ngoại giao đa phương và song phương cũng như các kênh ngoại giao (từ kênh chính quyền đến Quốc hội và Nhân dân) cùng những bình diện khác nhau (chính trị, kinh tế - thương mại, văn hóa và truyền thông).
Phong cách ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến cách tiếp cận hội nhập quốc tế của Việt Nam, theo các chuyên gia nhận định với Kinh tế & Đô thị.
Chuyên gia từ Học viện Quốc phòng Australia - Giáo sư Carl Thayer cho rằng, trong 80 năm qua, chính sách đối ngoại của Việt Nam vẫn dựa trên các nguyên tắc then chốt trong tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: giữ vững đoàn kết dân tộc, mở rộng đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, coi các nước châu Á là anh em và các quốc gia là bạn, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
“Bác đã để lại dấu ấn, di sản sâu đậm trong hành trình hội nhập khu vực và toàn cầu của Việt Nam với phong cách ngoại giao linh hoạt, thực tiễn” - vị học giả Australia chia sẻ.
Dẫn câu nói nổi tiếng - “Thực lực là chiêng, ngoại giao là là cái tiếng”, GS Chapman lưu ý, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi ngoại giao là một công cụ để kết hợp sức mạnh chính trị, kinh tế và quân sự của Việt Nam, kết hợp cả sức mạnh sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho cả hòa bình và phát triển.
Chuyên gia người Anh cũng khẳng định Việt Nam đã áp dụng nguyên tắc này trong suốt hành trình hội nhập quốc tế.
“Điều đó thể hiện qua việc Việt Nam ngày càng có khả năng chuyển hóa sức mạnh toàn diện kết hợp giữa năng lực kinh tế và uy tín quốc tế thành ảnh hưởng ngoại giao có ý nghĩa”, ông Chapman cho biết.
Những dấu ấn ở các sự kiện quốc tế lớn như Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều II hay Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) 2017 đã minh chứng khả năng đó của Việt Nam.
Trong câu chuyện Thượng đỉnh Trump-Kim II, Việt Nam đã khéo léo tận dụng cơ hội để thể hiện mình như một hình mẫu phát triển hậu xung đột - một ví dụ về cách một quốc gia từng bị chia cắt và chiến tranh tàn phá có thể chuyển đổi sang hòa bình, thịnh vượng và hội nhập.
“Thành công của hội nghị thượng đỉnh đã củng cố danh tiếng của Việt Nam như một chủ thể xây dựng và thực tế, có khả năng lèo lái các tiến trình đa phương phức tạp - ngay cả trong bối cảnh biến động toàn cầu” - nhà nghiên cứu người Anh khẳng định.
Còn trong câu chuyện APEC 2017, bất chấp những thách thức vào thời điểm đó, đặc biệt sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam đăng cai và tận dụng thành công diễn đàn này để tập hợp 21 nền kinh tế thành viên, tái khẳng định cam kết chung của họ đối với thương mại mở, hợp tác khu vực và phát triển bền vững, chuyên gia từ Đại học Tohoku khẳng định.
Nhìn lại hơn một thế kỷ từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cứu nước đến nay, Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh nhấn mạnh, ngành ngoại giao đang phải tiếp tục tham mưu đúng đắn và kịp thời, góp phần xác định nguy cơ, trở ngại cũng như nêu bật và tranh thủ phát huy thời cơ - tạo cục diện đối ngoại tối ưu cho sự vươn lên của Việt Nam trong thời kỳ mới.
“Hành trình hội nhập quốc tế và khu vực một cách chủ động, bản lĩnh, bài bản, cân nhắc bối cảnh, lợi ích, tương quan các bên, cùng với việc tham gia hàng loạt hiệp định thương mại đa phương cho thấy Việt Nam trong thời bình đã vươn lên, vừa phát triển kinh tế thương mại, vừa đảm bảo chủ quyền quốc gia, là minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam tiếp tục được phát huy trong thời kỳ mới”, nữ Đại sứ khẳng định.
Với vị thế của đất nước hiện nay, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho rằng Việt Nam cần giữ được biểu tượng hoà bình, tư thế một nước độc lập. Hà Nội phải là điểm đến để các nước đối thoại với nhau, như hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019, dù tiếc rằng “Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un không thể trao thanh kiếm hạt nhân cho Cụ rùa Hồ Gươm” như cách viết của một nhà báo Mỹ.
Nhìn lại chặng đường vẻ vang đã đi qua, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, chúng ta càng nhận thức rõ về sứ mệnh nặng nề nhưng cũng đầy vinh quang của ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đó là phải tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thu hút các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài đóng góp đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của đất nước, đặc biệt là các mục tiêu phát triển 2030 và 2045 mà Đại hội Đảng XIII đã đề ra.
Trước bối cảnh quốc tế biến động, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao khẳng định, ngành ngoại giao cần tiếp tục phát huy vai trò “tiên phong, trọng yếu, thường xuyên” nhằm thực hiện ba mục tiêu chiến lược: An ninh, phát triển, vị thế đất nước. Ngoại giao phải kết nối nội lực với ngoại lực, mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực chiến lược như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Đồng thời, nâng tầm đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, hợp tác và phát triển toàn cầu.
Bài 1: Hạt gạo vươn ra thế giới
Bài 2: Việt Nam hội nhập toàn cầu: Từ “ngoại giao mượn áo” tới đối tác tin cậy trên trường quốc tế
Bài 4 (Bài cuối): Độc lập và hội nhập: thế cân bằng Việt Nam






