70 năm giải phóng Thủ đô

Một số bài thuốc hay dùng quế

BS Nguyễn Phú Lâm
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Đông y xem quế là một trong 4 vị thuốc quý: Sâm, Nhung, Quế, Phụ. Việt Nam là một trong những nước trồng rất nhiều quế.

Quế được dùng từng bộ phận của cây với những tác dụng khác nhau và cách dùng cũng đa dạng.

Quế được ứng dụng điều trị phòng ngừa bệnh đái tháo đường, giảm nguy cơ bệnh tim, kháng viêm mạnh, bảo vệ não khỏi chứng mất trí và suy giảm nhận thức, phòng ung thư, loại bỏ hơi thở hôi, tốt cho da...

Quế - vị thuốc nhiều công dụng 
Quế - vị thuốc nhiều công dụng 

Nhiều bài thuốc bổ thận, chữa bệnh vô sinh - hiếm muộn nam và nữ đều có dùng quế.

Quế có tên khoa học là Cinnamomum loureirii Nees; họ long não (Lauraceae). Cây to, cao 10 - 20m, vỏ ngoài nứt nẻ, thân phân nhiều nhánh. Cây mọc hoang trong rừng, hoặc trồng bằng hạt, hay chiết cành, sau 5 năm có thể thu hoạch, nhưng vỏ quế bóc sau 20 - 30 năm thì tốt nhất.

Vỏ quế bóc vào tháng 4 - 5 hay 9 - 10 sẽ dễ hơn vì đây là giai đoạn quế làm nhựa.

Quế có khí thơm, vị cay ngọt, tính nóng, có hơi độc, hoàn toàn là dương dược, vào hai kinh can thận. Chủ dụng: Cứu được khí nguyên dương đã lạnh lâu ngày, giúp ấm cho chứng tỳ vị hư hàn, cứng gân xương, mạnh sinh dục, dưỡng tâm thần, nuôi tinh tủy, ấm lưng gối, chữa tê thấp, ho đờm, nhọt trong...

Từng bộ phận cây quế có tác dụng làm thuốc khác nhau. Nhục quế mùi vị ngọt mà cay, đã bổ được mệnh môn lại hay chạy lên trên, suốt tới ngoài phần biểu, cứu vãn phần dương trong dương, lại là thuốc của phần vinh vệ khí huyết hậu thiên.

Quế chi: Vị cay, tính nóng và nhẹ, có độc nhẹ, khí nổi lên mà đưa lên, là dương dược, vào hai kinh tỳ và bàng quang; chữa chứng đau trong bụng, giải được chứng lạnh ngoài bì phu, điều hòa vinh vệ, cơ biểu, trị tê tay tê chân, giải tán phong hàn; không có mồ hôi làm cho ra mồ hôi, đã có mồ hôi làm cho cầm mồ hôi.

Quế tâm (gọt bỏ hết bì thô dày, lấy phần bên trong màu tía, rất ngọt): Vị ngọt tính âm, là thuốc âm trong dương dược, công dụng bổ vào tâm huyết; chữa chứng huyết sung lên, đau bụng hậu sản, ngăn được chứng thổ ra máu, mửa ra máu, thông kinh hành huyết…; trị sinh xong khí huyết không tan, tích tụ lại thành hòn khối ở thượng vị, cảm hàn nhiệt, tay chân gầy ốm.

Dưới đây là một số bài thuốc có dùng quế, trong đó có bài điều trị cho chứng vô sinh - hiếm muộn nam.

Quế linh hoàn: Nhục quế 3g, Mộc hương 3g, Can khương 5g, Nhục đậu khấu, Chế phụ tử đều 9g; Đinh hương 3g, Phục linh 9g, chế thành hoàn mỗi lần uống 8g, ngày 2 - 3 lần với nước ấm. Trị đau bụng tiêu chảy do tỳ thận dương hư.

Tế sinh Thận khí hoàn: Can địa hoàng 15g, Sơn dược 12g, Sơn thù 6g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả đều 12g, Nhục quế 4g, Phụ tử 10g, Xuyên ngưu tất 12g, Xa tiền tử 15g, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 15g, ngày uống 2 - 3 lần. Trị viêm thận mạn, phù thũng do dương khí hư chân tay lạnh, tiểu ít chân phù.

Thất vị bổ tinh: Thục địa 320g, Hoài sơn 240g, Sơn thù 200g, Đơn bì 120g, Trạch tả 120g, Bạch linh 160g, Nhục quế 40g.

Đây là bài Bát vị hoàn được bỏ vị Phụ tử vì vị này có tính nóng, hơi độc không thích hợp với người bị cao huyết áp, người trẻ tuổi.

Tuy nhiên, bài thuốc vẫn giữ lại vị Nhục quế, thay vì bỏ đi như trong bài Lục vị hoàn. Bởi vì Nhục quế có vị cay ngọt, tính nhiệt; quy vào các kinh thận, tỳ, tâm, can.

Nhục quế có tác dụng bổ mệnh môn hỏa, tán hàn, ôn tỳ, chỉ thống, làm ấm khí huyết.

Bài thuốc Thất vị bổ tinh giúp bổ thận, bồi dưỡng ngũ tạng, sinh tinh, làm cho tinh khí mạnh mẽ, rất dễ thụ thai.