Đó là ý kiến của các đại biểu tại Hội thảo “Đưa thực phẩm an toàn đến người tiêu dùng (NTD) trên địa bàn TP” do Sở Công Thương và Sở Y tế, Sở NN&PTNT tổ chức chiều 12/5. Sạch - bẩn lẫn lộn Số liệu của Sở Công Thương Hà Nội cho thấy, trong khi nguồn cung ứng của Hà Nội chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu thịt gia súc, gia cầm, 60% rau củ tươi..., số thực phẩm còn lại được khai thác từ các tỉnh lân cận hoặc nhập khẩu. Nguồn hàng đa dạng nên việc kiểm soát chất lượng sản phẩm đang là một bài toán khó. Chẳng hạn, sản phẩm rau an toàn (RAT) có tới 6 hình thức tiêu thụ. Trong khi tiêu thụ tại các siêu thị, cửa hàng phân phối bán lẻ, giao theo hợp đồng tới bếp ăn tập thể chiếm chưa tới 5% thì lượng RAT người sản xuất tự bán tại chợ dân sinh chiếm 26,8% và bán buôn tại các chợ đầu mối chiếm đến 55%.
Bà Trần Thị Phương Lan - Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội than phiền: RAT có tem, nhãn nhận diện, truy xuất nguồn gốc được tiêu thụ qua 18 DN; 17 HTX cung cấp cho các cửa hàng bán lẻ, điểm phân phối, siêu thị, bếp ăn tập thể với sản lượng gần 20.000 tấn/năm. Trong khi lượng rau xanh chưa có tem, nhãn nhận diện truy xuất nguồn gốc tiêu thụ tại các chợ, đầu mối, chợ dân sinh... lên đến hơn 370.000 tấn/năm. Về vấn đề này, đại diện Chi cục Bảo vệ thực vật cho biết: Để sản xuất RAT, người nông dân phải có kiến thức, kỹ năng, thông qua các lớp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, qua đó thay đổi tập quán canh tác, thực hiện các quy định về ATTP. Quy định là vậy nhưng hiện mới chỉ có 30% số hộ nông dân gieo trồng RAT được huấn luyện IPM. Ngoài ra, hệ thống chứng nhận chất lượng RAT như VietGAP chỉ thích hợp với sản xuất quy mô lớn với các tiêu chí kỹ thuật phức tạp khiến nông dân khó có thể tiếp cận quy trình. Trong khi chi phí áp dụng rất cao, giá thành rau hữu cơ đắt gấp 2 lần so với các mặt hàng cùng chủng loại ngoài thị trường cũng không khuyến khích người nông dân áp dụng khoa học vào sản xuất cũng như NTD ưu tiên sử dụng chọn lựa sản phẩm RAT. Chờ những chính sách căn cơ Để đưa được thực phẩm an toàn đến NTD đòi hỏi việc liên kết tạo ra chuỗi cung ứng là yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, để làm được việc này đòi hỏi Nhà nước có sự hỗ trợ về chính sách, chế tài xử lý vi phạm. TS Lê Đức Mạnh - Viện trưởng Viện Công nghiệp thực phẩm đề nghị, các cơ quan có thẩm quyền rà soát lại các văn bản hiện hành, chỉnh sửa, ban hành đồng bộ và có tính khả quan cao để giúp công tác quản lý ATTP được thuận lợi. Đồng thời, chế tài xử lý vi phạm không nên quy định chung chung mà cần phải cụ thể theo hướng đủ sức răn đe. Ngoài ra, phải xác định trách nhiệm rõ ràng với từng cấp quản lý Nhà nước, qua đó tránh hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm. Nhiều DN tham gia Hội thảo có chung kiến nghị, về lâu dài bài toán quy hoạch các vùng trồng, sản xuất, chế biến tập trung cũng cần được tính đến để có thể dễ dàng giám sát quy trình sản xuất. Đây cũng là cơ sở kêu gọi DN đầu tư, hạn chế sự phát triển của các hộ kinh doanh, sản xuất nhỏ lẻ. Ông Lê Hồng Thăng - Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội cho biết: Để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm sạch của NTD, thời gian tới, Sở sẽ duy trì, xây dựng mô hình quản lý thực phẩm theo chuỗi từ sản xuất đến kinh doanh; quy hoạch các vùng sản xuất RAT, thịt gia súc, gia cầm và thủy sản. Đồng thời phấn đấu đến cuối năm 2016 sẽ có 80% cơ sở kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. Tuy nhiên, bên cạnh sự tích cực của cơ quan quản lý, đẩy mạnh việc áp dụng chuyển giao khoa học kỹ thuật…, chính bản thân mỗi NTD cần thay đổi thói quen sử dụng thực phẩm hàng ngày: Lên tiếng mạnh mẽ, tẩy chay những tổ chức, DN, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn.
Mua bán thực phẩm tại chợ Hôm. Ảnh: Việt Dũng |