Truyện ngắn: Chuyến xe đêm

Truyện của Ma Văn Kháng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Họ đã phải đổi xe ở biên giới. Chiếc Mazda sang trọng được thay thế bằng chiếc com-măng-ca cũ kỹ mình đầy bụi, lam lũ, không biển số.

Và người phụ nữ châu Âu  hiểu ngay rằng, từ đây tính mệnh của họ trên đất nước xa lạ này hoàn toàn phụ thuộc vào chiếc xe và anh lái xe, một chiến sĩ Việt Nam nhỏ nhắn, hiền lành. Ôi chao! Chiếc xe quả là không tin cậy được. Giờ, nó lại chết giữa vùng đất mênh mang, nhìn đâu cũng chỉ thấy mờ mờ những cây thốt nốt cao lớn, chơi vơi trên vòm trời trống tênh. Thấy xe hỏng, người đàn ông phương Tây ngồi cạnh người phụ nữ choàng tỉnh, đẩy cửa xe, chui ra. Ông là phóng viên của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, quen với những khung cảnh chiến trường, nỗi hiểm nguy và những sự kiện mới mẻ, sôi động của hành tinh.

- Rôda, em cứ yên tâm!

Người đàn ông ghé mặt vào cửa xe, an ủi người phụ nữ. Họ mới lấy nhau. Và người đàn ông đã thuyết phục được vợ mới cưới thuận theo ý muốn phản ánh cái máu mê nghề nghiệp của mình: Hưởng tuần trăng mật trên con đường thiên lý của nghề làm báo, ở một đất nước xa xôi đầy bí hiểm. "Em có biết không? Bọn cai trị ở nước ấy bắt đàn ông, đàn bà phải sống cách biệt trong các trại tập trung. Chúng chỉ định người đàn bà này lấy người đàn ông kia. Chúng cũng tổ chức cưới cho họ. Cưới hàng chục cặp ghép đôi như ghép gà, ghép lợn, rồi ai lại về trại nấy. Không ai được phép có một cái gương. Ai soi mặt dưới bóng nước, bắt gặp, chúng đập chết liền". Nghe người chồng nói vậy, người vợ rùng mình. Thật là kinh khủng và quái gở. Làm sao có thể tin được? Tính tò mò được khơi dậy và chị cùng chồng bay đến Việt Nam, rồi bây giờ quá cảnh qua đây, vùng đất vừa thoát khỏi cái tai ương khủng khiếp vô nhân đạo nhất mới có ít ngày.
Minh họa: Hiền Nhân
Minh họa: Hiền Nhân
 - Xe làm sao thế, anh người Việt? - Người đàn ông đi lên phía đầu xe hỏi anh lái người Việt, giọng cố tỏ ra không sốt ruột.

- Thủng két nước, ông ạ. - Người lái xe đáp khẽ, nhưng lại chợt giật mình chồm lên, gào vào trong xe lúc đó ánh đèn vừa lóe dậy vàng đục: - Tắt đèn! Tắt đèn đi, chị ơi!

 Người đàn ông bước lại cửa xe, nhún vai. Trong xe im thin thít. Cả hai đều tự hiểu một cách sâu xa rằng, ánh sáng lúc này là mục tiêu của bao điều hung hiểm. Tốt nhất là yên lặng trong đêm và chờ đợi. Nhưng mà chờ đợi bao lâu nữa? 

Nhưng bỗng, thình! Nắp ca-bô xe dập xuống. Người đàn ông bước nhanh lên đầu xe. Thấy người lái xe đang lau tay, ông liền quay lại, mở cửa xe, gieo mình xuống cạnh vợ, thở phào sung sướng:

- Thủng két nước! Nhưng, thật là kỳ diệu! Thật là kỳ diệu!

- Chữa được rồi, Bốp? May quá!

- Anh ta đã chữa. Bằng gì em có biết không? Ở Cuba năm sáu mươi, anh cũng gặp một ca như vậy. Ở Ănggôla vừa rồi chiếc xe chở anh cũng rơi vào tình cảnh tương tự, người lái xe bít lỗ thủng bằng xà phòng. Còn ở đây, bây giờ, anh lái xe người Việt này chít các lỗ thủng bằng phân trâu! Thật là kỳ lạ!

 Xe đã chữa xong, tiếp tục lăn bánh. Và người phóng viên châu Âu  lại  rơi vào cảm giác ngỡ ngàng, mỗi bánh xe lăn là một bước đi vào những điều chưa biết. Nhất là mỗi khi bánh xe chạm đánh kịch vào gờ một chiếc cầu và ông nhìn thấy lố nhố trong bóng đêm ba bốn cái mũ sắt cùng mấy ngọn súng tiểu liên. Người lái xe ngoảnh ra cửa, đưa tay lên chào những người gác cầu, nói cái gì đó và chiếc xe lại lăn đi ngay.

Sự gặp gỡ thỉnh thoảng một chiếc cầu và các trạm gác vừa làm cho hai vợ chồng người phóng viên yên lòng, lại vừa gây cho họ cảm giác phấp phỏng. Nhất là chiếc xe đã chạy cách cầu được một quãng, người lái xe trẻ tuổi quay lại, vẻ như bâng quơ:

- Không có bộ đội chúng tôi thì trong vòng một ngày, chiếc cầu sẽ bị bọn phỉ phá sập ngay.

Người phụ nữ co người lại sau câu nói đó. Ngoài xe là bóng đêm mờ nhòa chứa chấp những bất trắc khôn lường.

- Một đất nước huyền thọai và trữ tình, Rôda ạ. - Người chồng quay lại, đắm chìm trong suy tưởng, thoát khỏi cái hiện thực lạnh lẽo ngoài kia. Nhưng người vợ bíu lấy cổ chồng, giọng lạnh run: Bốp, lạy Chúa! Sao chúng ta không đợi sáng mai hãy đi?

- Ờ, nghề nghiệp của anh! Rôda à, trong tĩnh lặng buổi đêm, ta nhìn được chiều sâu của các sự kiện.

- Lạy Chúa! Em vừa đọc xong "Chùm nho uất hận" của Stenbéc. Sao em có cảm giác chúng ta đang ngồi trong chiếc xe Hundson của gia đình Tom đi về miền Caliphoócnia xa xôi vô định quá!

Người đàn ông lắc đầu im lặng. Cái rùng mình từ người phụ nữ lan sang ông, để lại trong ông một cảm giác lửng lơ. Và khi thấy xe chạy gần một tiếng đồng hồ nữa mà không gặp lại một chiếc cầu nào, thì ông thấy nỗi lo sợ của người vợ là hợp lý.  Thấm nhiễm khắp không gian là cơn tê tái của những hãi hùng tưởng chừng hết sức đáng sợ. 

 Đối cực với trạng thái tâm lý của người phụ nữ và phần nào của người đàn ông châu Âu, là trạng thái tinh thần của anh lái xe. Anh còn rất trẻ trong bộ quần áo màu cỏ úa. Chỉ độ hăm mốt hăm hai, anh có khuôn mặt dễ mến. Nhìn bán diện, cái trán hơi dô, gò mũi cao và cái cằm thon lẹm, nhỏ, hệt cái cằm con gái. Song đáng chú ý nhất là con mắt. Xe chạy không đèn. Nhưng mắt anh là ngọn đèn. Và con người trẻ tuổi ấy lại diễn đạt sự bình tĩnh đến mức người đàn ông phương Tây đứng tuổi vốn có ưu thế ấy phải ghen tỵ. Không phải là anh lên gân cố tình. Cũng chẳng phải là sự khinh bạc. Sự bình tĩnh vì từng trải, vì làm chủ được sự vật, hòa hợp một cách nhuần nhuyễn với một bản lĩnh chiến sĩ đã hình thành một cách thật tự nhiên.

Người phóng viên phương Tây loay hoay trong cảm nhận và ông đang tìm từ ngữ để diễn đạt thì bị bỗng như bị giật mình: Ông nên ngồi ra ghế sau đi. Ngồi ở trên ghế này nguy hiểm đấy, ông ạ.

Giọng nói của người lái xe vừa cất lên và vẻ nghiêm trang của nó khiến người phóng viên phương Tây cảm thấy bị xúc phạm: Tôi đã từng ở mặt trận Palestine. Ông nói: Tôi ở bãi biển Hirôn Cuba khi bọn Mỹ bị đánh trả tơi bời. Tôi vừa ở Ápganixtăng về...

Người lái xe quay lại, anh hiểu tâm trạng ông nhà báo, nhưng hơi mỉm cười:

- Ở đây, bọn tàn quân Pôn Pốt nó ranh ma lắm, ông ạ. Phát súng đầu tiên chúng dành cho người lái. Phát sau là một quả B41. Tháng trước có một ông bị vạ lây với tôi vì thế, may chỉ bị thương. Vả lại, đừng nên để bà ấy ngồi một mình.

Cơn tự ái của người phóng viên tan ngay sau câu nói ấy. Xe dừng lại một chút để người đàn ông chuyển về hàng ghế sau. Và khi xe tiếp tục chuyển bánh người phóng viên nước ngoài lại rơi vào trạng thái tâm lý dang dở, lưng chừng rất quen thuộc. 

Xe lại gặp một chiếc cầu. 

Nhưng cuộc gặp gỡ như định kỳ ấy lại khiến người phụ nữ thấp thỏm. Về tâm linh, chị tinh tế hơn chồng. Sau phút yên lòng, chiếc xe đi vào nỗi bơ vơ, đơn chiếc. Khúc giữa hai cây cầu dằng dặc là dặm đường đầy bất chắc khôn lường.

Người phụ nữ níu tay chồng, dồn dập hơi thở: Bốp! Thật kinh khủng! Chỉ với cái không khí này em cũng đã hiểu bọn người xưa kia thống trị xứ sở này tàn ác như thế nào rồi. Nhưng sao lại dấn thân vào đất này! Thật là mạo hiểm! Mà em cũng chẳng hiểu: Tại sao người Việt lại dính vào công việc ở đây. 

- Không phải! Bọn Pôn Pốt đánh họ đấy chứ! - Người đàn ông cải chính.

Lần này ông không giải thích cho vợ nữa. Chị là một phụ nữ xinh đẹp, yếu ớt và ngây thơ. Vậy thôi. Nhưng, người lái xe sau khi nghe người đàn ông dịch lại câu nói của người phụ nữ, gần như nhoai nửa người qua lưng ghế, anh chỉ lái có một tay.

- Chị chưa hiểu dân tộc tôi. Chị tôi, năm trước xung phong đi xây dựng kinh tế ở Tây Nguyên. Hăm hở lắm. Nhưng vừa rồi, tôi về phép, thì gặp bà ấy bồng tất cả con cái về làng. Không phải bà ấy không chịu được khổ. Trên ấy sung túc là khác. Nhưng bà ấy về vì... nhớ quê. Cái làng quê Việt Nam giữ chặt chân người ta  lắm. Người Tàu thì khác! Với ba củ lạc rang, họ đi khắp thế giới. Họ đến đất này, thoạt tiên xin ngủ nhờ đầu hè nhà người Khơme. Ít lâu sau, họ mở sòng bạc, cửa hàng tạp hóa. Rồi họ lấy người địa phương. Rồi họ bắt đầu mua đất. Người Cămpuchia đánh bạc hết tiền đành phải cầm đất. Hết đất, thế là vợ chồng con cái lên xe cho bò kéo đi. Êm thấm là cái cách của người Tàu. Còn chúng tôi, tất nhiên không phải thế. Nhưng nói thế nào để chị hiểu nhỉ?

Hình như hơi lúng túng về cách diễn đạt, người lái xe trở lại tư thế bình thường, hai tay xoay nhẹ nhẹ vành tay lái: Ông bà trông kìa, có giống cánh đồng ma không? Người Khơme có câu thành ngữ rất hay: "Người Tàu đuổi người Khơme, người Khơme đuổi ma". Đó, cầm đất cho người Tàu xong, người Khơme lại lặn lội đến các cánh đồng hoang, bắt đầu khai phá.

 Nghe người chồng dịch lại câu nói của anh lái xe, người phụ nữ rùng mình, nép vào bên chồng, run rẩy. Chị lẩm nhẩm như đọc kinh: "Bốp! Chắc chắn là họ đã dò mìn cẩn thận rồi chứ!". Bốp, sao mãi không đến một chiếc cầu nào?" "Bốp! Dừng lại ở trạm gác cầu sắp tới nhé! Em chịu không nổi nữa rồi!". Và sau cùng nỗi sợ hãi của chị đã tới cực điểm, đã thành sự thật. Chị bỗng ôm choàng lấy chồng, rú lên một tiếng khiếp đảm và tắc nghẽn.

Đoành! Đoành! Đoành! Đạn vừa nổ ba tiếng phá vỡ bóng đêm. Đó là tiếng súng của bọn tàn quân bắn vào chiếc xe.

Người phóng viên chồm lên, thét một tiếng còn kinh hãi hơn tiếng rú của người phụ nữ, ông nhìn thấy người lái xe đập mặt xuống vành tay trái: Trời!

Ông run hết cả người, cảm thấy mất hết tự chủ. Cảnh tượng trước mắt ông là sự thật mà như ác mộng. Tên phỉ thiện xạ nào đó đã bắn thật chính xác, ba viên đạn xuyên qua ngực người lái xe phá chếch ở phía lưng anh. Anh gục xuống, lưng hơi cồm dậy, ở đó máu ứa đen thẫm. Vậy là hết rồi! Hết rồi! "Phát đạn đầu chúng dành cho người lái xe. Phát thứ hai là một quả B41". Bọn tàn quân vẫn giữ cái lối xử sự như thời chúng còn thống trị đất này: chúng không ưa bắt tù binh, không sử dụng trại giam. Chúng giết người ngay tại chỗ, gọn ghẽ và chóng vánh.

Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, mất hết tri giác. Nhưng ông bỗng nắm lấy lưng ghế trước. Sao lạ thế này? Trong giây phút hoàn toàn tuyệt vọng này, khi người vợ yêu quý đã chết ngất bên mình, kỳ lạ quá, người đàn ông bỗng thấy trọng lượng thân thể mình sụt xuống, ông hẫng người, chông chênh trong một cảm giác mờ mờ ảo ảo: ngoài xe, cảnh bỗng chuyển dịch liên tục như các khuôn hình của một cuốn phim đang chiếu trên màn ảnh.

“Xe vẫn chạy”. Người đàn ông bàng hoàng khi thấy ở phía sau xe vừa vụt qua một luồng hơi nóng ngột và một tiếng nổ lớn. Ông ngồi xuống, nghiến chặt răng. Quả thật chiếc xe có khựng lại, nhưng chỉ một giây lát thôi. Và bọn tàn quân chưa kịp phóng quả đạn hủy diệt nó, nó đã tiếp tục lăn bánh. Mười phút sau, chiếc xe đỗ lại ở một cây cầu có những người lính gác. Anh lái xe bất tỉnh, nhưng chân vẫn còn đặt hờ trên chân ga, tay vẫn nắm chặt vành tay lái.

Câu chuyện về chiếc xe vượt qua cõi chết vô cùng khó hiểu đã trở thành một trong những chuyện kỳ lạ của chiến tranh. Tính toán chi li thì với ba viên đạn xuyên qua phổi, anh lái xe người Việt coi như đã gục ngay tại chỗ rồi. Cũng không phải là chiếc xe đã chạy theo quán tính. Đường rừng ở đây ngoằn ngoèo, không theo một sơ đồ cố định nào. Vả lại, tính ra, nó đã chạy được tới gần mười cây số để tới sự sống an toàn.

Câu chuyện gây xôn xao cho các bác sĩ và các phóng viên.

Hai vợ chồng người phóng viên phương Tây đến bệnh viện. Anh lái xe người Việt chưa chết. Đến bên giường anh, người phụ nữ đặt bó hoa lên cái bàn nhỏ cạnh anh, nước mắt giàn giụa. 

Người phóng viên phương Tây nắm tay lái xe trẻ tuổi, rưng rưng: Thật là kỳ diệu! Vì sao có thể như thế được, anh người Việt ơi?

Mắt nhợt vì mất máu, anh lái xe mấp máy đôi môi nhỏ:

- Lúc ấy tôi như chết rồi. Nhưng ông bà là người tôi có trách nhiệm phải đảm bảo an toàn, ông bà như mọi người, cần phải sống. Ông bà lại mới lấy nhau. Tôi như chết rồi. Nhưng chân ga chưa chết, mắt cũng như tay cố sống thêm, cố gắng để sống thêm... Ngước nhìn người phụ nữ mí mắt đầy nước, anh lái nhoẻn cười, nụ cười in dấu cơn đau, méo xệch: Ông bà nên đi thăm Ăngco đi. Đó mới là sự kỳ diệu...

Người phóng viên vội ghi lại ngay những lời của anh. Vì đó có thể là những lời cuối cùng của một người đã biểu hiện một cách hết sức tự nhiên và khiêm tốn nhân cách dân tộc mình: một dân tộc vị tha, sống chết vì người khác, điều đó đã trở thành một đạo lý, một nguồn năng lượng vô tận của họ.