Việt Nam là quê hương của trống đồng Đông Sơn. Đối với người Việt cổ, trống đồng là vật thiêng gắn liền với cuộc sống và mọi sinh hoạt tâm linh của cộng đồng. Khi có chiến tranh, trống đồng được sử dụng để động viên sĩ khí tướng sĩ, để ra hiệu lệnh chiến đấu và hiệp động tác chiến.
Từ câu chuyện linh thiêng của Thần Đồng Cổ
Theo truyền thuyết, vua Hùng đi dẹp giặc Hồ Tôn, khi qua vùng Đan Nê - núi Tam Thai, thuộc Bộ Cửu Chân, nay là huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa thì nghỉ lại, đêm ấy, Thần Đồng Cổ hiện lên xin theo giúp nhà vua.
Khi thắng trận trở về, vua vào đền làm lễ tạ ơn, cho đúc trống đồng và phong là “Đồng Cổ Đại Vương”. Tại thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ, trong cuốn sách chép tay Đại Nam nhất thống chí chép rằng: “Đền Thần Đồng Cổ ở Đan Nê, huyện Yên Định, có thờ một chiếc trống đồng, tương truyền do thời Hùng Vương làm ra”.
Năm 986, Lê Hoàn đi đánh giặc Chàm ở phương Nam, khi đến sông Ba Hòa, Tĩnh Gia, gặp mưa to gió lớn, Thần Đồng Cổ hiện lên, ông vái lạy, trời liền quang mây tạnh gió. Khi thắng trận trở về, Lê Hoàn làm lễ tạ ơn và ghi cho đền câu đối: Long đình tích hiển Tam Thanh lĩnh/Mã thủy Thanh lai Bản Nguyệt Hồ.
Năm 1020, Thái tử Lý Thái Tông, phụng mạng Vua cha là Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) đem quân đi đánh Chiêm Thành, đến Trường Châu hạ trại. Đêm ấy Người mơ thấy Thần Đồng Cổ đến tâu rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ, nghe tin Thái tử sang đánh phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc”.
Lần ấy quân ta thắng lớn, khi trở về Thái tử cho quân sĩ nghỉ lại ở Đan Nê, sai người sửa sang lại Đền, tổ chức lễ tạ và khao quân.
Sau đó, người xin được rước bài vị của Thần về kinh đô để giữ nước hộ dân. Về đến Thăng Long, văn võ bá quan và các thầy phong thủy còn đang chọn đất lập đền thì ban đêm Thần lại báo mộng: “Xin lập đền ở bên hữu, trong Đại thành, sau chùa Thánh Thọ”. Đền được xây ở hợp lưu sông Thiên Phù và sông Tô Lịch thuộc làng Đông Xã, nay là số 353 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Như vậy, ngôi đền Đồng Cổ này đã xấp xỉ 1000 năm tuổi và được giữ tôn hiệu "Minh chủ linh ứng Chiêu cảm Bảo hựu Đại vương do nhà Lý và nhà Trần sắc phong.
Năm 1028, Lý Thái Tổ băng hà, Thái tử Lý Phật Mã được kế vị là Lý Thái Tông lên ngôi, niên hiệu là Thiên Thành, Ngài đã phong tước vương cho Thần Đồng Cổ.
Lúc đó trong triều có sự bất hòa, Thần Đồng Cổ lại báo mộng cho biết trước là sẽ có “loạn tam vương”. Quả nhiên, Thái tử chưa tế táng xong thì Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chinh Vương đã đem quân vây thành để tranh ngôi của Thái tử
Lý Nhân Nghĩa và Võ vệ tướng quân là Lê Phụng Hiểu ra cửa thành nghênh chiến. Ông rút gươm ra chỉ mặt Võ Đức Vương mà mắng rằng: “Các ngươi dòm ngó ngôi cao, khinh rẻ tự Quân, trên quên ơn Tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!”. Nói xong, xông vào chém Võ Đức Vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ hãi bỏ chạy cả. Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương phải chạy trốn.
Thái tử Phật Mã lên ngôi tức là vua Lý Thái Tông. Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương xin về chịu tội. Thái Tông nghĩ tình anh em nên tha tội cho và phục chức cũ cho cả hai người.
Đến lễ Hội thề Trung hiếu
Cũng do có sự linh ứng của Thần Đồng Cổ biết trước sự phản nghịch ấy, nên vua Thái Tông mới lập lệ, các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng Đông Xã - Thăng Long) làm lễ uống máu ăn thề: “Làm tôi bất trung/ Làm con bất hiếu/ Thần minh tru diệt”.
Hội thề Đồng Cổ có từ đấy, các quan ai trốn không đến thì phải phạt đánh 50 trượng.
Triều Trần, sau ba lần đại thắng quân Nguyên - Mông, đất nước thịnh trị được hơn 50 năm, đến thời Trần Dụ Tông, vua thì ham chơi bời, lười chính sự, các qua thì tham nhũng, ức hiếp nhân dân. Chu Văn An đã phải dâng sớ xin chém 7 nịnh thần, thời bấy giờ gọi là “thất trảm sớ”, nên nội dung lời thề nhà Trần sửa lại: “Làm tôi tận trung/ Làm quan trong sạch /Ai trái thế này/ Thần minh giết chết”.
Hội thề Trung Hiếu đền Đồng Cổ vốn là lời thề của văn võ bá quan của Triều đình được thực hiện đầu thời Lý, được duy trì ở thời Lê, thời Trần, và sau này trở thành một lễ hội trong dân gian, nhưng hình thức lễ hội là sự kết hợp giữa nghi thức cung đình xưa và sự sáng tạo của dân gian, nên hằng năm cứ đến ngày 4/4 âm lịch là khách tứ phương về dự rất đông để tiến hành lễ rất trang trọng.
Tiếng trống đồng Đông Sơn vang lên, tạo ra khí thế ngút trời, vừa động viên binh sĩ ta, vừa làm cho quân địch vô cùng khiếp sợ. Thời Trần Nhân Tông, sứ nhà Nguyên là Trần Cương Trung sang nước Việt, khi về nước làm bài thơ “Sứ hoàn cảm sự”, có những câu: “Ánh lóe gươm sắt, lòng thêm đắng/ Tiếng rộn trống đồng, tóc điểm hoa”.
Năm 2023 kỷ niệm 995 năm Hội thề Trung Hiếu đền Đồng Cổ, quận Tây Hồ cùng với Tiểu Ban Quản lý Di tích đền Đồng Cổ của làng Đông Xã xưa tổ chức. Hy vọng rằng, sắp tới Hội thề Trung Hiếu đền Đồng Cổ sẽ được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia để tiến tới kỷ niệm 1.000 năm Hội thề Trung hiếu (1028 - 2028). Một nét văn hóa đặc sắc và độc đáo của Thăng Long - Hà Nội đã được lưu truyền 1.000 năm.
Việc tổ chức tọa đàm nhằm góp phần gợi mở, định hướng cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ. Thời gian tới, Sở sẽ nhanh chóng xây dựng, củng cố hồ sơ đề nghị ghi danh Hội thề đền Đồng Cổ vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Xây dựng kịch bản lễ hội bài bản, chi tiết, thiết thực với lịch sử. Kết nối di tích và lễ hội Đồng Cổ với hệ thống di sản văn hóa trên địa bàn quận Tây Hồ cũng như TP Hà Nội để phát triển thành sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù, đồng thời đẩy mạnh công tác giáo dục di sản đến với cộng đồng và người dân Thủ đô.
Giám đốc Sở Văn hóa -Thể thao Hà Nội Đỗ Đình Hồng