WB dự báo Việt Nam dẫn đầu tăng trưởng hàng năm tại châu Á

Nam Trung
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Ngân hàng Thế giới (WB) đã hạ dự báo tăng trưởng hàng năm của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khi sự tăng tốc của Việt Nam chưa đủ để bù đắp cho nền kinh tế đang chậm lại của Trung Quốc.

Trong dự báo kinh tế mới nhất được công bố vào hôm nay (27/9), WB đã hạ mạnh mức tăng trưởng của Trung Quốc xuống 2,8%, từ mức 5% hồi tháng 4/2022. Yếu tố này đã làm chậm tốc độ tăng trưởng dự báo của khu vực xuống còn 3,2% cho năm nay, giảm so với mức tăng trưởng 5% được dự đoán vào tháng 4.

Trong báo cáo bao gồm Đông Á, Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương, ngoại trừ Nhật Bản và 2 miền Triều Tiên, Việt Nam được dự đoán sẽ dẫn đầu khu vực với mức tăng trưởng hàng năm là 7,2%, tăng từ mức 5,3% trong dự báo hồi tháng 4. Triển vọng đối với Indonesia không đổi ở mức 5,1%. Ngoại trừ Trung Quốc, khu vực dự kiến ​​sẽ tăng trưởng 5,3% vào năm 2022.

Nikkei Asia dẫn lời Aaditya Mattoo - nhà kinh tế trưởng của East - cho biết: "Động lực cho tăng trưởng lớn trong khu vực lúc nay là nhờ việc dỡ bỏ các hạn chế dịch bệnh mà các quốc gia đã phải duy trì". Phần lớn các quốc gia trong khu vực đã mở cửa trở lại cho việc đi lại và thông thương, mặc dù Trung Quốc vẫn duy trì chính sách "zero-Covid" và áp đặt các đợt đóng cửa lẻ tẻ ở một số thành phố lớn.

WB dự đoán, Philippines, Thái Lan và Campuchia sẽ trở lại mức sản lượng trước đại dịch vào cuối năm nay. Sản lượng ở Trung Quốc, đã phục hồi trước đó để vượt mức trước đại dịch, tiếp tục vượt xa khu vực mặc dù tăng trưởng chậm lại.

Trong khi đó, dự báo tăng trưởng của Lào và Mông Cổ bị hạ xuống do lạm phát, lãi suất cao hơn và đồng tiền yếu hơn đã làm giảm sức mua và khả năng trả nợ của các nước này. Tăng trưởng của 2 nước này, và của Trung Quốc, sẽ dưới 3% trong năm nay, nhưng cả 3 nền kinh tế được dự báo ​​sẽ phục hồi trong năm tới với mức tăng trưởng là 5,5% đối với Mông Cổ, 4,5% đối với Trung Quốc và 3,8% đối với Lào.

Cũng theo ông Mattoo, ngoài Lào và Mông Cổ, hầu hết các nước trong khu vực đều có thể đối phó với từ việc tăng lãi suất nhanh của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) "tương đối tốt", vì chủ yếu là nợ trong nước hơn là nợ nước ngoài.

Tăng trưởng ở các đảo ở Thái Bình Dương chủ yếu đến từ Fiji, được dự báo sẽ tăng 12%, trong khi quần đảo Solomon, Tonga, Samoa và Micronesia được dự đoán sẽ giữ nguyên.

Báo cáo còn cho thấy, châu Á - Thái Bình Dương có xu hướng kiểm soát giá cả hàng hóa nhiều hơn bất kỳ khu vực đang phát triển nào khác, ngoại trừ Trung Đông và Bắc Phi. Tuy nhiên, các biện pháp hỗ trợ đang nghiêng về phía nông dân trồng lúa và các loại ngũ cốc khác, mặc dù người tiêu dùng ngày càng ưa thích rau, trái cây và thịt.

Các biện pháp hiện tại cũng cho thấy xu hướng đảo ngược nhiều năm giảm trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch. Tại Indonesia và Malaysia, trợ cấp nhiên liệu hóa thạch đã tăng từ khoảng 1% GDP năm 2020 lên hơn 2%. "Sự đảo ngược này có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu giảm phát thải carbon và khiến các quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch, khiến họ dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc giá trong tương lai" - WB cảnh báo.

Từ đó, WB kêu gọi các chính phủ khu vực cần cân bằng tính bền vững dài hạn với phúc lợi cộng đồng ngắn hạn cũng như các đặc quyền chính trị, đặc biệt là khi Indonesia, Thái Lan và Malaysia sẽ đối mặt với các cuộc bầu cử vào năm tới.

Ngân hàng lưu ý thêm, việc hỗ trợ giá kéo dài sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách và rút vốn khỏi cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục. Thái Lan, Philippines và Malaysia được dự báo sẽ kết thúc năm với tỷ lệ nợ công trên GDP cao hơn, dự kiến ​​sẽ vượt quá 60% ở cả 3 nước.

Các khoản đầu tư để hỗ trợ tăng trưởng dài hạn được cho sẽ là cần thiết, do nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của khu vực có dấu hiệu suy yếu. WB ghi nhận các báo cáo hàng quý từ các nhà bán lẻ Mỹ cho thấy nhu cầu tiêu thụ hàng điện tử đang chậm lại, mà nhiều trong số đó được sản xuất và lắp ráp tại Trung Quốc, Việt Nam và Malaysia. Suy thoái ở các nền kinh tế lớn trong năm nay có thể làm giảm hơn 1 điểm phần trăm tăng trưởng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Malaysia chịu thiệt hại lớn nhất, ở mức 0,8%.