Trong đó, cùng với quan điểm quyết liệt xử lý nợ xấu cũ, không để phát sinh nợ mới, việc nâng cao chất lượng tín dụng cũng được đặt ra.
Kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc
Là một trong những đại biểu Quốc hội quan tâm đến vấn đề nợ xấu, đại biểu Phạm Thị Thanh Mai (đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội) đặt vấn đề: “Nếu kéo dài thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) có xử lý được dứt điểm nợ xấu và giải quyết được triệt để các vướng mắc hạn chế đang diễn ra hay không”. Đó cũng là băn khoăn của đại biểu Quốc hội đặt ra trong phiên chất vấn cũng như trong các phiên thảo luận trước liên quan đến vấn đề này.
Từ trả lời của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cũng như thực tế cho thấy, Nghị quyết số 42 đã mang lại những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu, góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020.
Lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42, bằng 47,9% số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 15/8/2017 và số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết số 42 có hiệu lực.
Tính trung bình nợ xấu đã xử lý đạt khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn mức trung bình 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng trong giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (từ năm 2012 - 2017).
Trong tổng số 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã được xử lý có 148.000 tỷ đồng là do khách hàng tự trả nợ (chiếm 38,93%), cao hơn so với mức 22,8% trung bình năm từ 2012 - 2017 do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu nội bảng đã xử lý. Đồng thời, kết quả xử lý, bán, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ của TCTD và VAMC đạt 77,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,3%.
Như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, Nghị quyết 42 cho phép người cho vay thu giữ tài sản bảo đảm, bán nợ xấu hoặc tài sản đảm bảo có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Đây là điểm quan trọng giúp cho xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, trong thực tế, có những khoản vay sau đó phát sinh nợ xấu, nhất là khi nền kinh tế chịu ảnh hưởng bởi đại dịch, nhiều khoản vay được cơ cấu thì có thể dẫn tới nợ xấu gia tăng.
Trong quá trình triển khai cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, các TCTD đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro.
Trong thời gian vừa qua, khi DN gặp khó khăn thì hệ thống ngân hàng thực hiện tái cơ cấu các khoản nợ và cho phép giữ nguyên nhóm nợ cho các DN, tạo điều kiện cho các DN tiếp tục được vay. Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các TCTD cần chủ động có trích lập dự phòng trong 3 năm để có giải pháp xử lý nợ xấu.
Kết quả thí điểm xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã chứng minh các chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu phát huy hiệu quả tích cực, giúp khơi thông dòng vốn, đưa dòng vốn luân chuyển vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, như Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhận định, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro; một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 chưa phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án...). Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao; một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, thực hiện quyết liệt các biện pháp để thu hồi nợ, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo cơ sở để đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu hiệu quả.
“Ngân hàng Nhà nước luôn chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải thực hiện nghiêm quy định về cho vay, cho vay là phải đảm bảo đủ điều kiện, có phần trích lập dự phòng rủi ro phòng trường hợp nợ xấu phát sinh”- Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành, UBND tỉnh, TP tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quy định tại Nghị quyết 42 trên thực tế sau khi được Quốc hội thông qua gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết.
Tạo hành lang pháp lý thông suốt
Như các phân tích được chỉ ra, việc nợ xấu có xu hướng tăng trong thời gian tới là hiện hữu. Nợ xấu chưa xử lý theo Nghị quyết số 42 đến 31/12/2021 vẫn ở mức cao là 412,7 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ kéo dài 5 năm và sẽ hết hiệu lực thi hành sau ngày 15/8/2022.
Khi hết hiệu lực thi hành, việc xử lý nợ xấu của TCTD sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không được ưu tiên áp dụng một số chính sách được quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Trước lo ngại việc thiếu hụt cơ chế, chính sách khuyến khích để hỗ trợ tổ chức tín dụng, VAMC xử lý nợ xấu, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cần thiết phải tiếp tục duy trì các chính sách hiệu quả mà Nghị quyết số 42/2017/QH14 mang lại nhằm đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, tránh những tranh chấp phát sinh trong thực tiễn. Chính phủ đề xuất Quốc hội thông qua việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đến ngày 31/12/2023; giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất nội dung cần luật hóa quy định về xử lý nợ xấu cùng với việc rà soát, hoàn thiện Luật Các tổ chức tín dụng và các luật có liên quan đến xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm, trình Quốc hội chậm nhất vào kỳ họp đầu năm 2023.
Đề xuất này nhận được nhiều sự đồng tình từ các đại biểu Quốc hội. Theo đại biểu Nguyễn Việt Hà (đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang), các ngân hàng nhà nước, TCTD đang thực hiện giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ để hỗ trợ người dân, DN. Điều đó đồng nghĩa nợ xấu sẽ tăng trong thời gian tới. Nếu dừng việc áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 trong khi chưa luật hóa vấn đề này, các TCTD sẽ không còn công cụ để thu hồi nợ xấu, tạo ra áp lực, thách thức lớn đối với Ngân hàng Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng, gây hệ lụy tiêu cực đối với kinh tế vĩ mô.
Các đại biểu cũng đề nghị Quốc hội sớm luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, bởi những kết quả Nghị quyết mang lại đã chứng minh tính đúng đắn, cần thiết của việc ban hành quy định pháp luật cho công tác xử lý nợ xấu.
Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng”
"Trước áp lực nợ xấu của các TCTD dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ, Ngân hàng nhà nước có các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào khu vực sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” vào các tài sản tiềm ẩn rủi ro cao, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động cho vay, đầu tư vào các tài sản này. Xây dựng các kịch bản ứng phó linh hoạt với những biến động của thị trường tiền tệ thế giới nhằm bảo đảm nguồn vốn được khơi thông…" - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh
Nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng
"Nâng cao năng lực quản trị của các TCTD, đặc biệt trong công tác thẩm định giá trị tài sản bảo đảm, công tác quản lý tài sản trong quá trình cho vay. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, chỉ đạo các TCTD thực hiện nghiêm túc việc thẩm định tài sản để hạn chế tình trạng tiêu cực trong thẩm định tài sản cho vay, hạn chế sự gia tăng các khoản nợ xấu." - Đại biểu Bùi Mạnh Khoa (đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa)