Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT (Thông tư 29) là khởi đầu trong hành trình tìm lại triết lý của giáo dục, đó là hình thành cho học sinh năng lực tự học, tự chủ, không dựa dẫm, ỷ lại vào thầy cô và tạo nên môi trường học tập lành mạnh. Nhiều chuyên gia, nhà quản lý giáo dục bày tỏ sự đồng tình, tâm huyết với Thông tư 29; đồng thời nhấn mạnh: để giải quyết tận gốc vấn đề dạy thê, học thêm (DTHT), cần thực hiện tổng hòa nhiều giải pháp, nhưng cốt yếu nhất, quan trọng nhất là thay đổi nhận thức của ngườ dân, xây dựng ý thức tự học cho học sinh và loại bỏ bệnh thành tích trong giáo dục.


Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị tiền nhân là những tấm gương sáng về ý chí, nghị lực và tinh thần tự học. Từ tấm gương sáng ngời của Bác, từ các quy định pháp luật, thực tiễn và nguyên lý giáo dục thì chúng ta càng thấm thía vai trò quan trọng của tự học. Tự học để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, để hiện thực hóa Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT và Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị về việc dần đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Các môn học đều lấy tự học làm chính. Học sinh cần chủ động và nhận thức đầy đủ về tự học; rằng tự học không có nghĩa là một mình, không có nghĩa một mình mình học. Tự học là tự xây dựng kế hoạch, tự xác định mục tiêu, phương pháp, cách thức, không gian, thời gian, tài liệu, giáo trình, học mọi nơi, mọi lúc. Trong Chương trình GDPT 2018 xác định rõ chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh. Ở đó, thầy cô chỉ là người định hướng, gợi mở nên học sinh cần chủ động và phải tự học: học trong sách vở, nhà trường, thầy cô, bạn bè. Các em hiện có điều kiện thuận hơn, đó là có phương tiện, công cụ về CNTT, trí tuệ nhân tạo; có thầy cô tâm huyết, có người lãnh đạo chủ động để định hướng mục tiêu, phương pháp, cách thức, kiểm tra đánh giá.
Trong tự học, cần kiên trì, bản lĩnh, mưa dầm thấm lâu, từng bước một và tự tin, chủ động. Ý nghĩa của tự học là giúp chúng ta tự tin, tự lực, tự cường, chủ động trong mọi công việc, không phụ thuộc quá nhiều vào yếu tố bên ngoài; thầy cô phải hình thành cho học sinh phương pháp học.
Ngoài kiến thức, phẩm chất, năng lực, tự học còn hình thành nhiều phẩm chất khác. Học sinh có thể đi một mình chặng đường dài và khi có bạn, thầy cô, gia đình đồng hành, các em sẽ đi xa hơn và tự tin, mạnh dạn bước ra khỏi vùng an toàn. Với bản lĩnh, sự tự tin tự lập, hướng dẫn của thầy cô, cha mẹ vùng an toàn sẽ mở rộng, không gian, sự hiểu biết của các em sẽ phong phú và rộng lớn hơn.
Làm được điều đó không phải ngày một ngày hai mà cần kiên trì, có phương pháp. Học sinh nào chưa biết, không biết hoặc khó khăn thì phải hỏi để được hỗ trợ. Việc hỗ trợ cũng được tiến hành đa chiều, từ bạn, từ thầy, google, AI… Ngoài lý thuyết, quá trình học hỏi còn phải thực hành.
Tôi tha thiết mong các thầy cô hãy dạy phương pháp, truyền cảm hứng cho học sinh biết yêu con người, yêu tri thức, yêu văn hóa và bồi đắp tinh thần tự học. Càng thoát lệ thuộc vào thầy cô, học sinh càng hạnh phúc; mà học sinh vững vàng thì giáo dục mới phát triển…. Chỉ khi thầy cô nhận thức đầy đủ sứ mệnh là truyền cảm hứng thì mỗi ngày học sinh đến trường mới là một ngày vui. Tôi mong, tới đây cả nước sẽ có tháng tự học, năm tự học, cuộc đời tự học, khi đó nền giáo dục Việt Nam mới đạt được nhiều thành công…

DTHT đã trở thành vấn nạn trong nhiều nhà trường ở nhiều địa phương, trong suốt nhiều thập kỷ. Nó làm giảm hiệu quả giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, quan hệ thầy trò bị xói mòn, môi trường học đường trở nên thiếu lành mạnh. Thông tư 29 của Bộ GD&ĐT được ban hành, như hòn đá tảng, như một thang thuốc đắng chặn đứng DTHT tiêu cực. Nhiều chuyên gia có chung nhận định, chỉ một thông tư chưa đủ mà cần các giải đồng bộ và toàn diện, như: cách mạng hệ thống thi cử; đánh giá học sinh công bằng, thực chất; chuyển đổi hệ thống trường chuyên, lớp chọn và thi học sinh giỏi; rà soát các thông tư, chỉ thị để tránh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”...
Chúng tôi muốn bàn giải pháp dẹp bỏ bệnh thành tích trong các nhà trường - một tác nhân góp phần đáng kể, tạo nên sức nóng tiêu cực trong DTHT tràn lan hiện nay.
Bệnh thành tích, chính xác là bệnh thành tích ảo hay bệnh gian dối trong giáo dục, được hiểu đơn giản là cá nhân hoặc tổ chức cố tình làm đẹp số liệu, che đậy hoạt động dạy thêm không đúng đối tượng, gian dối trong báo cáo hoặc kết quả để đạt được thành tích trên giấy tờ, bất chấp thực tế không phản ánh đúng chất lượng hay hiệu quả thật sự về giáo dục. Thành tích không trung thực, có hành vi làm giả, che giấu, bóp méo sự thật để đạt được thành tích để đối phó với cấp chính quyền hay cấp trên về quản lý giáo dục.
Thời gian qua, tại nhiều địa phương, tình trạng DTHT tiêu cực diễn ra tràn lan, tinh vi như: ép buộc học sinh phải học thêm bằng nhiều hình thức; dạy lướt, dạy qua loa trên lớp, dạy kỹ hơn trong giờ học thêm; lấy điểm học thêm làm căn cứ đánh giá; tìm cách trù úm học sinh nếu không tới lớp hay tới nhà giáo viên để học thêm… Quan hệ giáo viên - học sinh không lành mạnh, chỉ dựa trên quan hệ mặt trái của thị trường; chạy theo lợi nhuận, bỏ qua chất lượng giáo dục thật trong buổi học chính khóa; giáo viên không làm tròn trách nhiệm, làm méo mó chất lượng giảng dạy chính khóa. Điều này dẫn đến, kết quả cao là nhờ học thêm chứ không phải do năng lực thật của học sinh.
Học sinh được nâng điểm nếu học thêm, thành tích điểm số bị thổi phồng, không phản ánh đúng năng lực cũng như chất lượng của học sinh, của lớp, của trường. Phụ huynh “chạy điểm”, thông qua học thêm, gây ảo tưởng con em mình giỏi toàn diện nhưng năng lực thật không phải thế; cạnh tranh thành tích giữa các giáo viên, giữa các lớp học; giáo viên thiếu trung thực khi đánh giá, thậm chí tô hồng học sinh để lấy thành tích, được khen thưởng cuối kỳ hay cuối năm...
Ngoài ra, khá phổ biến việc: giáo viên chạy đua dạy thêm vì vụ lợi, vì muốn kinh tế khá giả nhanh; áp lực thành tích từ cấp trên, các phong trào thi đua mang nặng hình thức, tâm lý của cán bộ quản lý coi “thành tích là trên hết”, thành tích là vinh dự cho trường, không có thành tích thì sợ mất danh hiệu thi đua.
Sự thiếu trung thực trong kiểm tra, đánh giá, thiếu cơ chế khuyến khích chất lượng thật cũng khiến bệnh thành tích có đất để phát triển. Giáo viên và có cả các bộ quản lý nhà trường vẫn đang tìm cách hợp lý hóa DTHT, đưa học sinh ra trung tâm để dạy thêm hoặc quảng cáo dạy thêm miễn phí. Cuối cùng để lại hậu quả rất nghiêm trọng: học sinh mất động lực học thật, chỉ học để đối phó; giáo viên thiếu trung thực trong giảng dạy và đánh giá học sinh, nhân cách nhà giáo bị suy giảm; gây xói mòn niềm tin xã hội vào đội ngũ nhà giáo và giáo dục; cản trở đổi mới giáo dục; kết quả đánh thực trạng giáo dục tại các nhà trường và các địa phương thiếu chính xác....
Bệnh thành tích và DTHT tiêu cực luôn là hình - bóng với nhau, do đó việc triệt tiêu bệnh thành tích ảo trong các nhà trường sẽ góp phần đẩy lùi vĩnh viễn nạn DTHT tràn lan.

Thông tư 29 mới thực hiện được hơn 3 tháng – một thời gian rất ngắn nên chưa thể đánh giá toàn diện, đầy đủ về nó nhưng so với Thông tư 17, thông tư này thể hiện sự đồng bộ, quyết liệt, tạo hiệu quả và sự chuyển biến, thay đổi tích cực trong các nhà trường. Đây là điều rất đáng trân trọng.
Tinh thần của Thông tư 29 không chỉ cấm những biểu hiện dạy thêm sai quy định mà sâu xa hơn là giúp học sinh biết tự học. Việc học sinh không thể rời xa thầy cô là rất nguy hiểm. Có thể vì học sinh không tự tin vào bản thân, giáo viên không tin vào năng lực của học trò, bố mẹ chưa tin vào con nên mới tìm cách kéo dài việc DTHT.
Khi thực hiện Thông tư 29, chúng ta không chỉ nhìn cái lợi trước mắt mà còn ý thức rõ được mục tiêu lâu dài, đó là tạo môi trường học tập lành mạnh cho học sinh, đặt ra yêu cầu nhân văn cho các nhà trường. Chấm dứt tình trạng DTHT tràn lan, chúng ta sẽ có được một thế hệ học sinh biết cách học, chủ động sáng tạo trong việc học của mình. Thông tư 29 tập trung giúp phát triển nhân cách, năng lực học sinh. Hiện học sinh của nước ta, từ cấp 1 đến cấp 3, thậm chí vào đại học vẫn đi học thêm. Học sinh Việt Nam thông minh nhưng được rèn luyện trong môi trường lúc nào cũng phải có người dẫn dắt, nên khi đi du học, các em thường phải mất một thời gian mới làm quen được với môi trường học thuật quốc tế.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến nở rộ DTHT là tình trạng thiếu trường và chất lượng giữa các trường không đồng đều, nhất là ở TP lớn. Muốn con được học các trường tốp đầu, trường chuyên, trường chất lượng cao, phụ huynh đổ xô cho con đi học thêm. Nguồn lợi lớn từ DTHT cũng là nguyên nhân khiến giáo viên khó dứt ra khỏi hoạt động này, vẫn có thầy cô bất chấp lách luật để dạy thêm. Ai cũng thấy, DTHT là nhu cầu chính đáng của giáo viên, người học, nhưng khi nhu cầu đó bị biến tướng, làm biến chất nhà giáo thì phải cắt bỏ tận gốc.
Muốn hạn chế tình trạng DTHT cần có chính sách hỗ trợ để giáo viên yên tâm với nghề. Thực tế, hiện thu nhập của giáo viên so với các ngành nghề khác không thấp nhưng vẫn phải tạo ra được sức hút lớn để giáo viên có thể dám lìa bỏ những nguồn lợi khác, chuyên tâm vào công tác chăm lo giáo dục.
Khi không DTHT, các thầy cô phải hướng dẫn học sinh cách học thế nào để phù hợp. SGK có kiến thức cơ bản, nhưng công nghệ có thể giúp các em học nâng cao. Với bài toán khó, đầu tiên học sinh phải cố gắng suy nghĩ, sau đó mới nhờ đến công nghệ, bạn bè, thầy cô. Học sinh phải biết cách học để phát triển bản thân, học để không chỉ trang bị kiến thức, mà phải biết vận dụng kiến thức đó vào đời sống. Khi thực hiện Thông tư 29, chúng ta cần lấy mục tiêu làm động lực và học sinh cũng phải làm quen để dần thích nghi với nếp tự học.
Có tâm tư lo ngại cho ngại về chất lượng giáo dục, trước đây là nhà trường, giờ là trung tâm. Đây là vấn đề của các địa phương. Ở đây có 2 câu chuyện: các trung tâm được phép mở nhưng tiêu chuẩn của giáo viên là gì, ai kiểm tra, ai xét duyệt,. Giáo viên công lập có năng lực, có nhu cầu nhưng không được đứng tên đăng ký trung tâm. Hoặc tình huống học sinh tiểu học tan sớm, bố mẹ chưa hết giờ làm nên không thể về đón. Các phụ huynh có nhu cầu con em họ được ở lại lớp và thầy cô hướng dẫn học. Điều này phải giải quyết ra sao?
Nhu cầu hướng dẫn học là chính đáng, nhu cầu trông con là chính đáng, nhu cầu của giáo viên có trình độ hành nghề cũng là chính đáng. Một mặt cần thực hiện Thông tư 29 một cách quyết liệt, đồng bộ, tránh tình trạng mỗi nơi làm một kiểu. Mặt khác, trước yêu cầu đặt ra trong thực tiễn, Bộ GD&ĐT nên giao các địa phương chủ động phần nào. Chúng ta cần xác định việc thực hiện Thông tư 29 là cả quá trình, chớ thấy chút khó khăn đã nản chí. Khi thực hiện thông tư, phải chuyển động và đề ra nhiều sáng kiến mới có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra.
Trước mắt, các địa phương phải chăm lo cho giáo viên ở địa phương mình trong khi chờ chế độ chung của nhà nước. Nếu giáo viên không yên tâm, không đủ sống thì Thông tư không thể làm được. Trong giai đoạn khó khăn, thầy cô cũng nên chia sẻ với ngành và cố gắng mạnh mẽ vượt qua.
Thông tư 29 có thể coi là một biện pháp hành chính khả thi và tiến bộ, một bước đột phá nhằm lập lại trật tự trong hoạt động DTHT vốn đang diễn ra tràn lan, tiêu cực ở nhiều nhà trường. Thông tư đã mở ra một giai đoạn mới cho phát triển giáo dục, có tính quyết đoán, kịp thời và hứa hẹn về khả năng giải quyết dứt điểm thực trạng nhức nhối về DTHT hiện nay.

