Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

COC có thể trở thành Bộ Quy tắc ràng buộc pháp lý?

TS Trần Công Trục - Nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Ý nghĩa và tác dụng đích thực của “Dự thảo khung COC” như thế nào? Kinh tế&Đô thị xin được giới thiệu bài viết của TS Trần Công Trục - Nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ.

COC khác gì DOC?
Ngày 6/8, Ngoại trưởng Trung Quốc và  ASEAN đã thông qua “Dự thảo khung về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”.
Trước hết, theo nhận xét của những chuyên gia, nhất là các chuyên gia pháp lý thì, với 3 phần của “dự thảo khung” cho thấy nội dung COC  được đàm phán trong tương lai sẽ không đáp ứng đầy đủ nội dung tối thiểu, cơ bản của một văn bản quy phạm pháp luật, một bộ luật (code) với đúng nghĩa của nó. Bởi vì, một văn bản quy phạm pháp luật thông thường phải được kết cấu bởi các chương, mục, điều khoản… một cách chặt chẽ, logic. Nếu coi COC là một bộ luật (code), một loại văn bản quy phạm pháp luật thì tối thiếu cần phải kết cấu các chương, mục, điều khoản về Chủ thể, khách thể; Phạm vi điều chỉnh..
 TS Trần Công Trục - Nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ.
Thậm chí, các quốc gia ký kết COC cần tính đến thành lập Cơ quan, lực lượng thực thi pháp luật. Ví dụ như phải thành lập ra Cơ quan An ninh hàng hải (MSA) để kiểm soát và quản lý các mối đe dọa an ninh hàng hải và đảm bảo tuân thủ nghiêm túc COC;  Cơ quan điều phối các lực lượng cảnh sát biển của các quốc gia liên quan..
Và Cơ chế tài phán và thi hành án bao gồm Hệ thống tổ chức các cơ quan tài phán, chức năng quyền hạn và thủ tục thụ lý hồ sơ của các tổ chức tư pháp: sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế đã có hay thành lập mới mang tình khu vực; nội dung tranh chấp, tính chất và mực độ vi phạm; cơ chế thi hành án…
Tuy nhiên,  “Dự thảo khung COC” dường như chủ yếu bao hàm những nội dung mang màu sắc chính trị nhiều hơn là pháp lý. Trong phần mở đầu, COC được coi là một phần của tiến trình thực hiện DOC và theo đó, DOC sẽ ảnh hưởng lớn đến nội dung của COC. Điều này cho thấy rằng COC cuối cùng có thể không quá khác so với DOC.
Vai trò của Philippines
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác  các tuyên bố và cách thức ứng xử của phía Philippines trong thời gian hậu phán quyết Tòa Trọng tài 12/7/2016. Bởi vì nó liên quan và có ảnh hưởng đến vai trò của Philippines khi làm chủ tịch ASEAN2017.  Qua những gì mà dư luận đã quan sát và bình luận cho thấy rằng trong nội bộ chính giới và dư luận Philippines cũng đã có những nhận thức, quan điểm khác nhau về kế sách có thể áp dụng cho thời kỳ hậu Phán quyết Trọng tài: Một là tiếp tục đấu tranh không khoan nhượng với Trung Quốc, nhưng bằng lý lẽ ôn hòa , trên cơ sở thống nhất nhận thức về tính khả thi của Phán quyết Trong tài trong điều kiện và bối cảnh quốc tế hiện nay để có sách lược đấu tranh thích hợp, vừa không đẩy tranh chấp lên đỉnh điểm dễ dẫn đến đối đầu xung đột, vừa tiếp tục duy trì giá trị của Phán quyết Tòa Trong tài để sử dụng trong quá trình đàm phán và đấu tranh pháp lý với Trung Quốc trong các diễn đàn khu vực và quốc tế, chống lại các hành động bất chấp luật pháp của Trung Quốc. Hai là, trước sức ép của Trung Quốc, vì lợi ích kinh tế, chính trị, Philippines xuống thang, nhân nhượng Trung Quốc bằng cách trực tiếp hay gián tiếp phớt lờ thành quả đấu tranh pháp lý của chính mình do Phán quyết Trọng tài mang lại. Nhiều ý kiến nghiêng về kế sách thứ 2.
 Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, Thứ trưởng Ngoại giao Philipine Manuel Teehankee và Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 50 đã thông qua Bộ khung COC ngày 6/8. 
Tuy nhiên, nếu bình tĩnh quan sát và phân tích kỹ thì có thể thấy rằng Ông chủ Điện Manacanang - Tổng thống Rodrigo Duterte - đã thể hiện một cách xuất sắc kế thứ 1. Do đó đã  mang về 24 tỉ USD cam kết viện trợ, đầu tư từ Trung Quốc, 8,7 tỉ USD cam kết viện trợ và đầu tư từ Nhật Bản, hai kỳ phùng địch thủ ở Đông Á. Ngoại trưởng Perfecto Yasay tuyên bố rằng Philippines sẽ không nêu Phán quyết Trọng tài ra các cuộc họp của ASEAN và các hội nghị, diễn đàn liên quan năm nay với tư cách Chủ tịch luân phiên của khối cần được hiểu chính xác rằng đó chỉ là vấn đề song phương giữa Manila và Bắc Kinh, nhưng Chủ tịch ASEAN sẽ không ngăn cản các thành viên khác của khối nêu vấn đề này lên bàn hội nghị. Như thế Bắc Kinh cũng khó nói được gì Manila, bởi Chủ tịch luân phiên ASEAN cũng cần phải tôn trọng và lắng nghe tiếng nói từ các thành viên. Manila không chủ động nêu vấn đề đã là giữ thể diện cho Bắc Kinh rồi. Nói cách khác, đây chỉ là đòn "mượn hoa dâng Phật" của Điện Manacanang mà thôi.  Phải chăng đây chính là những bước đi khởi đầu thể hiện vai trò của Chủ tịch luân phiên của Philippines trong sứ mệnh tìm cách lái con tàu Biển Đông vượt qua song gió của cuộc canh tranh địa- chính trị giữa các siêu cường trong năm 2017? Thiết nghĩ đó cũng là phương cách xử lý khôn ngoan của cả Philippines và Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay.
Vai trò của ASEAN
ASEAN có vai trò rất quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định, trong quá trình giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Bởi vì,  các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của hầu hết  các quốc gia thành viên của ASEAN đều bị vi phạm, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi các hoạt động phi pháp của TQ trong Biển Đông. Trong lịch, sử các thành viên của Hiệp hội ASEAN đã có nhiều đóng góp rất quan trọng cho tiến trình giải quyết các tranh chấp phức tạp này thông qua các Nghi quyêt, Tuyên bố , DOC,….Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, kể cả cơ chế “đồng thuận”, ASEAN đã có lúc bộc lộ những điểm yếu của mình về sự đoàn kêt, thống nhất nội bộ. Thâm chí có lúc không ra được Tuyên bố chung, không có tiếng nói đồng thuận trong một số vấn đề pháp lý, chính trị liên quan đến tình hình Biển Đông. VN và Phi cần tiếp tục vận động trên cơ sở có lý có tình, thông cảm đên hoàn cảnh của từng thành viên để có cách ứng xử thích hợp, trên cơ sở chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm chung.
Hoạt động xây dựng phi pháp của Trung Quốc ở đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. 
Như đã phân tích ở trên, trong Hội nghị thượng đỉnh lần này có thể Philippines sẽ thể hiện thái độ “hòa dịu” hơn với Trung Quốc về vấn đè Biển Đông. Nhưng điều đó không có nghĩa là Philippines từ bỏ nguyên tắc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, từ bỏ trách nhiệm bảo vệ sự thượng tôn pháp luật. Vì vậy, vị thế của ASEAN sẽ không giảm đi, thậm chí có thể sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn, Nhất là trong bối cảnh Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa Biển Đông; Mỹ dường như  không thực sự quan tâm đến Biển Đông.
Vai trò của Việt nam
Xuất phát từ chính sách đối ngoại hòa bình, nên từ trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông. Sau khi gia nhập ASEAN, VN đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc soạn thảo, thương lượng nội dung các quy định trong DOC. Sau khi DOC được ký, chúng ta tiếp tục nêu cao vai trò, trách nhiệm tuân thủ các cam kết trong DOC; có các bước đi thích hợp để các nước hiểu rõ lập trường của nước ta về Biển Đông, kiên trì cùng các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS); thúc đẩy thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới xây dựng COC nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Chúng ta cũng tăng cường mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực về biển với các nước láng giềng theo tinh thần của DOC; đồng thời, kiên quyết yêu cầu các nước liên quan thực hiện đúng các cam kết trong văn kiện này. Các nỗ lực và việc làm của Việt Nam được dư luận quốc tế, khu vực đánh giá cao, coi đó là những đóng góp tích cực cùng các nước ASEAN và Trung Quốc hiện thực hóa DOC.
Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Là thành viên trong ASEAN, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của mình tích cực tham gia xây dựng COC thực sự là cơ sở pháp lý hàng đầu, nhân tố quan trọng góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, đảm bảo duy trì hòa bình, ổn định, an ninh cho vùng Biển Đông nói riêng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới nói chung.
Tuy nhiên, có một số ý kiến lo ngại về quan hệ  kinh tế chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua. Họ cho rằng quan hệ đó đã làm ảnh hưởng đến  cuộc đấu tranh chung của khu vực nhằm  chống lại những hành động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia liên quan. Xin lưu ý rằng, trong bang giao quốc tế hiện nay, mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, nhất là giữa các quốc gia láng giềng là một xu thể tất yếu, cần thiết. Việt Nam và Trung Quốc không nằm ngoài xu thế đó. Vì vậy, quan hệ giữa 2 nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc hoàn toàn không có liên quan gì đến sự gia tăng căng thẳng trên Biển Đông. Ngược lại, nó còn góp phần làm giảm bớt nguy cơ xung đột, chiến tranh có thể xẩy ra do những tranh chấp phức tạp do lịch sử để lại giữa các quôc gia liên quan, đặc biệt là tranh chấp về địa-chiến lược,địa-chính trị giữa Trung Quốc và Mỹ trong cuộc đua tranh  vị trí siêu cường khu vưc châu Á-Thái Bình Dương giữa 2 nước này.

Tác động của Phán quyết Trọng tài

Có thể không trực tiếp sử dụng Phán quyết này tại bàn đàm phán với TQ về COC. Nhưng các nội dung pháp lý mà Phán quyết đã đề cập sẽ được vận dụng để đàm phán, nhất là về phạm vi điều chỉnh , một nội dung chủ yếu, không thể không bàn dến để có được COC. Trực tiếp đề cập đến phán quyết có thể vấp phải sự phản đối của Trung Quốc và một vài nước bị Trung Quốc lôi kéo, mua chuộc. Nhưng nếu sử dụng các nội dung Phán quyết coi như là một Phụ lục của UNCLOS 1982 để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa là có thể chấp nhận được cho cả các bên, nếu các bên có tinh thần cầu thị khách quan và thượng tôn pháp luật.

Triển vọng của COC

Với những gì đã trình bày và phân tích ở trên, có thể nói rằng  để có được một bộ Quy tắc ứng xử , được coi là một bộ Luật Biển khu vực, có lẽ vẫn còn nhiều trở ngại cần được vượt qua. Nguyên nhân không phải do trình độ biên soạn văn bản quy phạm pháp luật mà cái chính là do có những tranh chấp phức tạp về mặt pháp lý trong việc xác lập các vùng biển và thềm lục địa xuất phát từ việc  giải giải thích và áp dụng khác nhau các quy định của UNCLOS1982; tranh chấp chủ quyền đối với các hải đảo trong Biển Đông…

Đặc biệt là một số thành viên khi tham gia với những động cơ chính trị khác nhau, đặc biệt là Trung Quốc, một thành viên đã có những hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia khác xung quanh Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị đã đạt được.

Trung Quốc đã và đang tìm cách trì hoãn quá trình thương thảo  để  tranh thủ tạo được lợi thế trong đàm phán về COC. Chừng nào yêu sách “lưỡi bò” chưa được hợp thức hóa trong việc xác lập phạm vi điều chỉnh COC thì chừng đó không thể có được COC. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải thực hiện bằng được chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường số một thế giới với Hoa Kỳ. Và, như vậy có thể thấy rằng cái gọi là “ đã đạt được bản thảo đầu tiên của Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông” do Trung Quốc chủ động thông tin là cố ý thổi phồng, nhằm mục đích tuyên truyền, mê hoặc dư luận vì động cơ chính trị. Có chăng chỉ có thể chỉ là “đã đạt tiến triển tốt trong việc xây dựng bộ khung COC với Trung Quốc.” do phía Philppines loan báo. Việc thống nhất “bộ khung” thì chỉ là vấn đề kỹ năng soạn thảo luật mà bất kỳ môt chuyên gia luật pháp nào cũng có thể làm được chỉ trong chốc lát, thậm chí đến các em sinh viên luật đang ngồi trên ghế nhà trường cũng có thể làm tốt được công việc sơ đẳng này.

Tuy nhiên, trong các nội dung đã được đề cập nói trên vẫn để ngỏ triển vọng rằng COC có thể mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. Bởi vì, cuối cùng,COC sẽ phải được thông qua theo các tiến trình nội bộ Trung Quốc và 10 nước thành viên ASEAN.

COC có tính ràng buộc pháp lý hay không và có sớm trở thành một “bộ luật”(code) đúng với tên gọi của nó hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết tâm chính trị, sự đoàn kết thống nhất của các nước ASEAN; không để cho Trung Quốc tiếp tục lợi dụng tiến trình này để che đậy các hoạt động trên thực tế, xâm phạm các quyền và lợi ích  hợp pháp của các quốc gia trong khu vực  Biển Đông.