Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giá kim loại đồng ngày 21/6: tăng do lo ngại về nguồn cung

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Giá đồng tăng do Ngân hàng Trung ương Trung Quốc lập trường chính sách tiền tệ nới lỏng, nhu cầu của người dùng cuối tốt hơn sau khi giá giảm gần đây và lo ngại về nguồn cung.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 0,5%.
Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 0,5%.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,5% ở mức 9.835 USD/tấn, trong khi hợp đồng đồng tháng 7 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) SCFcv1 đóng cửa tăng 1,2% ở mức 79.390 Nhân dân tệ (10.934,96 USD)/tấn.

Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cho biết, ngân hàng sẽ kiên trì lập trường chính sách tiền tệ hỗ trợ và sẽ kiên quyết ngăn chặn tỷ giá hối đoái tăng vọt.

Trong khi đó, sản lượng đồng của Anglo American tại mỏ Los Bronces ở Chile dự kiến ​​sẽ giảm gần 1/3 so với mức trung bình lịch sử trong năm tới, cho thấy nguồn cung nguyên liệu thô đang bị thắt chặt.

Jinrui Futures cho biết trong một báo cáo rằng khi giá đồng giảm trong tuần qua, các công ty cho biết các đơn đặt hàng của người dùng cuối đã quay trở lại, dẫn đến lượng dự trữ giao ngay trong nước giảm.

Giá đồng trên LME đã giảm xuống mức thấp nhất là 9.551 USD vào đầu tuần này từ mức cao kỷ lục trên 11.000 USD đạt được chỉ một tháng trước đó. Tồn kho đồng SHFE giảm xuống còn 330.753 tấn.

Jinrui cho biết thêm, giá dự kiến ​​sẽ được hỗ trợ trong ngắn hạn nhờ các biện pháp nới lỏng và cải thiện nhu cầu đồng vật chất giao ngay.

Tuy nhiên, sự tăng vọt của tồn kho đồng LME đã hạn chế mức tăng, đồng cũng đang bước vào mùa nhu cầu chậm theo truyền thống.

Khả năng Mỹ cắt giảm lãi suất ít hơn dự kiến ​​trước đây cũng đang đè nặng lên giá kim loại.

Nhôm LME CMAL3 tăng 0,7% lên 2.515,50 USD/tấn, niken CMNI3 tăng 0,9% lên 17.510 USD, kẽm CMZN3 giảm 0,1% ở mức 2.867 USD, chì CMPB3 giảm 0,3% xuống 2.192 USD trong khi thiếc CMSN3 tăng 1,6% lên 32.905 USD.

Nhôm SHFE SAFcv1 tăng 0,6% lên 20.595 Nhân dân tệ/tấn, niken SNIcv1 tăng 1,3% lên 135.400 Nhân dân tệ, kẽm SZNcv1 tăng 1% lên 23.840 Nhân dân tệ, thiếc SSNcv1 tăng 2,5% lên 273.400 Nhân dân tệ trong khi chì SPBcv1 giảm 2,4% xuống 18.790 Nhân dân tệ.