1. Sự cần thiết tất yếu và thực trạng hợp tác liên kết công nghiệp giữa Hà Nội và các địa phương vùng Thủ đô Hợp tác vùng hay nói chính xác hơn là Hợp tác, liên kết vùng dựa trên cơ sở phân công lao động và khai thác các lợi thế so sánh là tiền đề nâng cao hiệu quả đầu tư, phát triển vùng nói chung và đầu tư công nói riêng. Hợp tác, liên kết phát triển vùng là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường với các mạng sản được xuất bố trí theo không gian lãnh thổ, để tạo nên các cực tăng trưởng và sự phát triển cho vùng cũng như cả nước. Trong nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa ngày nay thì hợp tác liên kết lại càng đặt ra cấp thiết, nhằm tạo các chuỗi liên kết sản xuất giữa các địa phương, vùng, quốc gia với nhau và gắn kết vào mạng sản xuất quốc tế. Sự hợp tác, liên kết trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ đưa đến kết quả là hình thành những cụm ngành có lợi thế, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cấp công nghệ và sức cạnh tranh, khả năng hội nhập của các nền kinh tế địa phương, vùng cũng như của quốc gia. Trong công nghiệp, điều này được lý giải bởi việc phát triển mạng lưới cụm ngành phù hợp (cụm liên kết ngành - cluster) sẽ cho phép nâng cao trình độ công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo việc làm và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sự lớn mạnh của các cụm ngành kéo theo sự phát triển đội ngũ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT), theo đó, các DN sẽ có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn, thị trường và dây chuyền công nghệ hiện đại. Các DN trong vùng hay quốc gia có thuận lợi chinh phục những thị trường và các đối thủ cạnh tranh so với khi hoạt động riêng rẽ thiếu hợp tác liên kết. Ngày nay, có thể tìm thấy sự hiện diện với các mức độ của cụm ngành tại nhiều quốc gia, từ công nghệ cao ở Silicon Valley (Mỹ) đến điện ảnh ở Bollywood (Ấn Độ), từ giày da ở Riviera del Brenta (Ý) đến rượu vang ở Western Cape (Nam Phi), từ thiết kế và thời trang ở Paris (Pháp) đến thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long (Việt Nam)... Sự tồn tại phổ biến của cụm ngành gợi ý rằng năng lực cạnh tranh (NLCT) của mỗi công ty và thậm chí của một số ngành công nghiệp không chỉ do bản thân công ty hay ngành quyết định, mà phụ thuộc rất lớn vào “hệ sinh thái” hay “cụm ngành” trong đó các công ty và ngành tồn tại hoạt động. Đối với các quốc gia đang phát triển hoặc bước vào ngưỡng thu nhập trung bình như Việt Nam, thực hiện chiến lược hợp tác liên kết vùng và theo cụm ngành có ý nghĩa hết sức quan trọng, là hướng đi giúp tái cấu trúc lại nền kinh tế và ngành công nghiệp, định hướng đầu tư và thu hút FDI hiệu quả, kích thích phát triển CNHT gắn với đội ngũ DNNVV và sự ra đời những tập đoàn kinh tế mạnh, là cách thức giúp thoát bẫy thu nhập trung bình và có thể vươn lên đẳng cấp phát triển cao hơn. Đáng tiếc, chính sách công nghiệp và thu hút FDI của Việt Nam thời gian qua thiên về chạy theo số lượng mà thiếu sự chọn lựa chiến lược, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng, hiệu quả, sự lan tỏa kích thích công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ - sản xuất trong nước, vì thế hiệu ứng lan tỏa chuyển giao công nghệ và phổ biến tri thức kinh doanh trong nước rất thấp. Trong khi Thái Lan lại là ví dụ tích cực về thu hút FDI và liên kết hợp tác sản xuất, họ đưa ra chính sách khuyến khích hài hòa đối với cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, lựa chọn phát triển các cụm ngành có lợi thế, theo đó, hàng ngàn vạn DNNVV của Thái Lan đã kết nối vào chuỗi sản xuất quốc tế và cung cấp sản phẩm CNHT cho doanh nghiệp FDI, giá trị gia tăng và các hiệu ứng KT-XH của phát triển được nâng lên đáng kể. Thủ đô Hà Nội được xác định là trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế và giao lưu quốc tế lớn, có yêu cầu cao về hợp tác liên kết đặt trong khung cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trước mắt là tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015 và đang tích cực để kết thúc đàm phán Hiệp định TPP, nhờ thế sẽ tạo nên các cực tăng trưởng, hiệu ứng lan tỏa và phát triển bền vững cho Vùng Thủ đô cũng như cả nước. Trong những năm trở lại đây, cùng với quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô, thành lập Vùng KTTĐ Bắc Bộ và Vùng ĐBSH (sông Hồng), kinh tế Hà Nội đã có những chuyển động theo hướng chú trọng tới hợp tác, liên kết với các địa phương trong vùng và liên vùng. Trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch và chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KT-XH hàng năm và 5 năm của Thành phố và các Sở ngành đã đề cập tới nhiệm vụ hợp tác với các địa phương. Có thể kể đến một số hoạt động tiêu biểu như: các chương trình hoàn thiện kết nối hạ tầng giao thông vùng; các hoạt động phối hợp xử lý ô nhiễm môi trường các làng nghề và hệ thống sông hồ; hợp tác giữa các địa phương vùng Thủ đô và vùng đồng bằng Sông Hồng về quảng bá du lịch, thu hút vận động đầu tư, tổ chức hội chợ triển lãm, thuận lợi hóa trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ… Tuy nhiên, nếu so sánh với các lĩnh vực khác (ví dụ dịch vụ - du lịch, thương mại) thì hợp tác vùng Thủ đô trong công nghiệp hãy còn khá mờ nhạt, chủ yếu mới chỉ là các hoạt động đơn lẻ và tự phát từ phía doanh nghiệp, do sự thúc ép từ nhu cầu bức xúc của thực tiễn sản xuất kinh doanh, của yêu cầu tìm kiếm đối tác và mở rộng thị trường, tiêu thụ giải phóng hàng tồn kho.... Cũng do thiếu hợp tác liên kết công nghiệp giữa Hà Nội và các địa phương trong nội vùng và ngoài vùng, đã dẫn tới các hệ quả như: (i) Đầu tư phát triển công nghiệp Thủ đô và các địa phương mang tính dàn trải, thậm chí trùng lắp do thiếu sự liên kết, hỗ trợ nhau, gây lãng phí về nguồn lực và cạnh tranh thiếu lành mạnh; (ii) Hà Nội và Vùng Thủ đô thiếu những Doanh nghiệp mạnh đầu đàn và thiếu những ngành công nghiệp chủ lực có tính dẫn đường và lan tỏa; (iii) Đồng thời cũng thiếu những sản phẩm chủ lực của Vùng có tính cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị phần và có hàm lượng giá trị gia tăng; (iv) Do thế, cơ cấu công nghiệp trên địa bàn và vùng Thủ đô chậm chuyển dịch lên nấc thang cao hơn và còn mang đậm tính chất gia công, bị lệ thuộc vào nhập khẩu nguyên phụ liệu linh kiện, sản xuất còn manh mún, công nghiệp hỗ trợ kém phát triển; (v) Tác động lan tỏa công nghiệp Thủ đô còn yếu, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo là đầu tầu tăng trưởng khu vực phía Bắc và của cả nước, hơn nữa, phát triển công nghiệp gần đây có dấu hiệu suy giảm mạnh về tốc độ tăng trưởng, chất lượng, sức cạnh tranh, thiếu bền vững; (vi) Cuối cùng, trong khi hạn chế tác động lan tỏa thì ngược lại, dường như Thủ đô đang phải gánh chịu sức ép nặng nề từ ngoại vi dồn về trung tâm xét trên nhiều mặt, gây ra hiện tượng tập trung quá mức trên các phương diện kinh tế, đất đai, hạ tầng xã hội - đô thị và lao động - việc làm… Dường như đây là một biểu hiện của căn bệnh phát triển: căn bệnh “đầu to”, tăng trưởng “nóng” và đô thị hóa “cưỡng bức”. Để khắc phục các hạn chế này, Hà Nội cần nghiên cứu các căn cứ lý luận và thực tiễn, đề xuất kiến nghị hoàn thiện cơ chế chính sách về Hợp tác liên kết phát triển Vùng, có xây dựng và triển khai một Chương trình hợp tác liên kết công nghiệp Vùng Thủ đô trong bối cảnh hội nhập sâu rộng cho giai đoạn tới năm 2020 và xa hơn. Trọng tâm hợp tác liên kết Vùng Thủ đô giai đoạn tới là tập trung vào phát triển một số cụm ngành có lợi thế (CLKN) và công nghiệp hỗ trợ (CNHT), nhằm hình thành chuỗi sản xuất vùng và có tính đến gắn với mạng sản xuất trong nước và quốc tế. Từ đây sẽ thúc đẩy đổi mới căn bản về công nghệ, chất lượng sự phát triển cũng như mô hình liên kết hợp tác và năng lực cạnh tranh của Địa phương và Vùng, nhằm tạo đột phá trong phát triển Thủ đô, biến Vùng Thủ đô trở thành cực tăng trưởng của cả nước cũng như của Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Đồng thời cũng giúp khắc phục kiểu quản lý hành chính mệnh lệnh, thúc đẩy sự hợp tác liên kết dựa trên cơ chế thị trường, tôn trọng nguyên tắc lợi ích và tính tất yếu phân công dựa vào lợi thế và theo không gian lãnh thổ, từng bước tham gia vào mạng sản xuất khu vực và quốc tế. Trong đó, xác định đúng vai trò Nhà nước và Chính quyền là hỗ trợ phát triển, xây dựng, giám sát luật chơi và kiến tạo thể chế, chính sách cho hợp tác liên kết vùng; Thị trường và Doanh nghiệp là các chủ thể thực hiện hợp tác liên kết, theo những cách thức sinh động, đa dạng và hiệu quả, đảm bảo phát triển bền vững và tăng cường hội nhập cho kinh tế Thủ đô, vùng Thủ đô và của cả nước. Với ý nghĩa này, liên kết cụm ngành công nghiệp trong không gian hợp tác Vùng và liên Vùng cấu thành nội dung của tái cơ cấu công nghiệp và chiến lược CNH Thủ đô và nước ta thời kỳ hội nhập sâu rộng. 2. Giải pháp tăng cường hợp tác liên kết công nghiệp vùng Thủ đô giai đoạn tới năm 2020, tầm nhìn 2030 2.1. Xây dựng hoàn thiện căn cứ pháp lý, thể chế cho hợp tác liên kết Vùng Thủ đô nói chung và công nghiệp Vùng nói riêng Trên cơ sở quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 cũng như căn cứ vào quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố, chính quyền các địa phương sẽ cân nhắc, đánh giá và tiến tới xây dựng Đề án hoặc Chương trình hợp tác liên kết kinh tế cho một giai đoạn hay thời gian thích hợp (ví dụ, tới năm 2020). Trong đề án liên kết phải chỉ rõ địa phương cần liên kết trong lĩnh vực nào và liên kết với ai. Đồng thời, các doanh nghiệp trên địa bàn phải đề xuất định hướng liên kết với chính quyền địa phương sở tại. Trên cơ sở ấy các địa phương tổng hợp và hình thành định hướng liên kết chung của địa phương mình. Để xác định nội dung liên kết một cách chính xác, đối với Hà Nội cần rà soát lại phương hướng phát triển và phương án tổ chức không gian dài hạn cũng như cần tham khảo định hướng phát triển của vùng lớn và định hướng phát triển của các tỉnh bạn. Hà Nội cũng có thể chủ động đề xuất thành lập Hội đồng chỉ đạo hợp tác Vùng và sau đó tiến tới thành lập Ban hợp tác Vùng Thủ đô. Trưởng Ban có thể là một đồng chí Phó Thủ tướng hoặc cũng có thể là người cấp tương đương, như Bí Thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị. Thành viên chính thức là các Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch các tỉnh thành thuộc Vùng. Thành viên tư vấn là các đại diện một số Bộ Ngành TW, các chuyên gia trong, ngoài nước. Giúp việc có Tổ thư ký thường trực chuyên trách là đại diện các Sở ngành, các nhà quản lý, nhà khoa học thuộc Vùng Thủ đô. Thành lập Quỹ nghiên cứu hợp tác Vùng Thủ đô, do một Ngân hàng được lựa chọn làm trung gian điều phối. Quỹ có nguồn cứng là đóng góp theo tỷ lệ của các địa phương và nguồn huy động từ vốn tín dụng ngân hàng căn cứ theo các nhiệm vụ, dự án, chương trình mà Ban Hợp tác liên kết vùng thông qua. Quỹ cũng có thể huy động đóng góp từ các Nhà tài trợ, từ cộng đồng Doanh nghiệp… Quỹ nghiên cứu hợp tác vùng để thuận tiện quản lý theo kênh KHCN có thể đặt tại Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội. Vùng kinh tế Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có Quỹ nghiên cứu tư vấn KHCN đặt tại Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Đà Nẵng, Viện điều hành Quỹ thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu do Ban phát triển Vùng phê duyệt quyết định 2. 2.2. Áp dụng tư duy mạng và cụm ngành sản xuất trong hoạch định chính sách hợp tác liên kết công nghiệp Vùng và thu hút FDI vào Vùng Mạng sản xuất là một hiện tượng điển hình của tiến trình toàn cầu hóa và nó có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình phát triển công nghiệp của tất cả các nước phát triển và chậm phát triển. Mặc dù mạng sản xuất không phải hiện diện ở tất cả các ngành và các lĩnh vực, nhưng ở một số ngành, mạng sản xuất có một tác động vô cùng quan trọng. Với những ngành mà mạng sản xuất có ảnh hưởng mạnh mẽ, chính quá trình hội nhập và phân công lao động quốc tế sẽ quy định sự phát triển của các ngành công nghiệp ở mỗi quốc gia khác nhau. Có thể một số nước áp dụng các chính sách công nghiệp khác nhau và họ có thể đạt được những kết quả khác nhau. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng đó chỉ là sự vận dụng tiến trình tất yếu hay quy luật chung của toàn cầu hóa mà thôi, về cơ bản những xu thế phân công lao động quốc tế sẽ quy định sự phát triển của các quốc gia riêng. Trên ý nghĩa đó, các quốc gia cần phải định vị một cách xác đáng vị trí của mình trong phân công lao động quốc tế và hiểu rõ mình có thể làm gì trong chuỗi các mắt xích sản xuất trong phạm vi khu vực và toàn cầu, từ đó đưa ra các chính sách thúc đẩy sự phát triển của công đoạn mà ngành công nghiệp của quốc gia mình có khả năng phát triển hay có lợi thế. Những thay đổi của quá trình toàn cầu hóa sản xuất đó đòi hỏi một tư duy hoạch định chính sách mới. Rất nhiều chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam hiện nay được hình thành trên cơ sở những tư duy của thời kỳ tiền hội nhập, vì vậy cần phải được điều chỉnh, và cũng theo ý nghĩa đó các chính sách mới cần phải được hình thành trên nguyên tắc của sự phân công lao động quốc tế và mạng toàn cầu. Trên phương diện này, chiến lược phát triển của các ngành công nghiệp và hợp tác liên kết công nghiệp của Việt Nam và Hà Nội hiện nay cần phải xác định rõ các công ty xuyên quốc gia sẽ đảm đương vị trí nào, các công ty đầu tư nước ngoài ở vị trí nào, các công ty trong nước đảm trách ở phần nào, và đặc biệt là mối tương tác giữa các loại hình doanh nghiệp này. Về cơ bản, cách tư duy này sẽ làm cho những người mong muốn xây dựng một nền kinh tế tự chủ cảm thấy bị “tổn thương lòng ái quốc”. Tuy nhiên, đây là một thực tế phải chấp nhận và các nhà hoạch định chính sách cần phải có những tư duy có phần thực dụng. Theo đó, sự độc lập và sức mạnh của nền kinh tế chỉ có được nếu Việt Nam thực sự hội nhập tốt vào mạng sản xuất quốc tế, mà không bị gạt sang bên lề hay cô lập, và do đó không thể phát triển trong thời đại toàn cầu hóa. Cần phải khẳng định rằng, Việt Nam ở trình độ công nghệ còn yếu, nhưng có những lợi thế nhất định về chi phí, vị trí địa kinh tế, nguồn nguyên liệu khá phong phú… nếu các ngành công nghiệp lựa chọn một số lĩnh vực có thể đảm đương được về mặt công nghệ và quyết tâm tiêu chuẩn hóa sản phẩm của mình theo tiêu chuẩn quốc tế, chắc chắn các công ty xuyên quốc gia sẽ chấp nhận sản phẩm của các công ty Việt Nam. Vấn đề của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là độ tin cậy quá thấp về chất lượng sản phẩm. Nhiều công ty trong nước có thể cung cấp được sản phẩm cho các công ty Toyota, hay Honda, nhưng vì khối lượng hàng hóa bán cho các công ty này còn nhỏ, nên họ lại quay về phục vụ thị trường nội địa nơi mà chẳng cần lắm độ tin cậy và chuẩn hóa chất lượng sản phẩm. Nếu như việc kiểm soát chất lượng sản phẩm được thực hiện một cách nghiêm túc theo các tiêu chuẩn quốc gia, và quốc tế và được duy trì ở mức độ tin cậy cao, dù cho đó là sản phẩm tương đối đơn giản về công nghệ, các công ty xuyên quốc gia sẽ có được niềm tin và thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ và quy mô lớn. Việc chuẩn hóa chất lượng sản phẩm sẽ là điểm quyết định cho việc khởi động tiến trình tham gia phân công lao động khu vực và toàn cầu, vì vậy cần phải có một chương trình chuẩn hóa các sản phẩm công nghiệp có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước, hoặc các hiệp hội. Nếu không có chương trình như vậy, chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không bao giờ chiếm được lòng tin của các doanh nghiệp quốc tế, và vì vậy dù có thu hút đầu tư nước ngoài nhiều bao nhiêu đi chăng nữa, các doanh nghiệp trong nước cũng không bao giờ có thể trở thành nhà cung ứng (dù là cấp 3 hay cấp 4) cho các doanh nghiệp nước ngoài. Ở đây cũng cần phải khẳng định rằng, sự cam kết của các doanh nghiệp nước ngoài, nhất là các công ty xuyên quốc gia liên kết với các doanh nghiệp Việt Nam là một vấn đề quan trọng. Muốn có được điều đó, quá trình hoạch định chính sách cần phải có sự tham khảo quan điểm của các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài khác để bảo đảm rằng, cái mà Việt Nam sẽ hỗ trợ phát triển (các linh kiện, chi tiết, hay sản phẩm) cũng là cái mà các doanh nghiệp nước ngoài cần đến, nếu không sự chênh nhau giữa cái mà Việt Nam phát triển lại không phải là cái mà doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cần. Sự phối hợp giữa các công ty nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước cũng như các cơ quan hoạch định chính sách là một điểm mới trong hoạch định chính sách trong bối cảnh hội nhập điều mà còn rất thiếu trong các chính sách trước đây. 2.3.Thực hiện quy hoạch công nghiệp theo không gian lãnh thổ và xác định chức năng, nội dung hợp tác liên kết Vùng gắn với các không gian lãnh thổ một cách thiết thực, hợp lý Phân tích lý thuyết và thực tiễn, từ tiềm năng thế mạnh, lợi thế so sánh của Hà Nội chúng tôi cho rằng nếu coi Hà Nội là khu nhân thì từ khu nhân này tỏa ra với bán kính khoảng 40-50 km là không gian liên kết gần (vành đai thứ nhất, năm 2013 quy mô dân số khoảng 5,8 triệu người không tính Hà Nội); lan ra khoảng 40-50 km nữa, tức bán kính khoảng 100 km cách Hà Nội, là không gian liên kết kế tiếp (vành đai thứ hai, quy mô dân số năm 2013 khoảng 14 triệu người không tính Hà Nội); ngoài 100 km là không gian liên kết rộng (vành đai thứ ba, quy mô dân số năm 2013 tính từ Thanh Hóa trở ra khoảng 29 triệu người). Đó có thể là không gian được xác định để liên kết giữa Hà Nội với các vùng lãnh thổ còn lại. Việc liên kết kinh tế cũng nên được xem xét theo hai vành đai, mỗi vành đai có bán kính rộng khoảng 40-50 km. Không gian gần ứng với vành đai thứ nhất; bao gồm không gian tính từ Hà Nội tới Bắc Ninh, qua Hải Dương, Vĩnh Yên, Hòa Bình, Phủ Lý kéo về Hưng Yên. Không gian tiếp theo, tính tới thành phố Hải Phòng qua Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Việt Trì nối với Thái Nguyên (thậm chí có thể tính thêm Thanh Hóa kéo sang Tuyên Quang và nối về Lạng Sơn rồi xuống tiếp Hạ Long…). Việc hợp tác liên kết kinh tế giữa Hà Nội với các địa phương trong phạm vi không gian gần (vành đai thứ nhất) cần được xem xét với các hướng cụ thể. Chúng tôi tạm thời đề xuất một số hướng hợp tác liên kết dưới đây: - Liên kết trong lĩnh vực đào tạo: Trên địa bàn Hà Nội tập trung những Trường Đại học có lịch sử lâu đời, vừa có năng lực vừa có trình độ đào tạo hơn hẳn các nơi khác nên các địa phương có thể cùng Hà Nội nghiên cứu phương án phân công hợp tác để đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên để làm việc này không dễ. Chính quyền các địa phương cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để tìm ra phương án hợp tác tốt nhất, tránh lãng phí và khắc phục tình trạng để đầu ra thiếu chất lượng. Những lĩnh vực kinh tế, chính trị, triết học, công nghệ phức tạp, y học chất lượng cao… nên để các Trường Đại học ở Hà Nội đảm trách. Những lĩnh vực đào tạo chuyên sâu về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; điều dưỡng… nên để Trường đại học của các địa phương đảm trách. Trong một số lĩnh vực, Trường ở các địa phương có thể chỉ là và nên là phân hiệu của Trường ở trung tâm Hà Nội. - Liên kết hợp tác trong lĩnh vực khám chữa bệnh: Không nên tập trung quá mức các bệnh viện tại Hà Nội. Nên xây dựng phương án chuyển bớt các bệnh viện chuyên khoa hoặc phân khoa về các địa phương. Các địa phương cùng phối hợp với Bộ y tế xây dựng phương án chung. Chỉ để ở Hà Nội những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ, những cơ sở chữa bệnh hiện đại, đầu ngành. Các bệnh viện về u bướu, nội tiết, lao… nên chuyển về địa phương để giảm tải cho Hà Nội và giảm nguy cơ ô nhiễm Thủ đô. Các bênh viện về mắt, phụ sản, da liễu… nên có phân viện tại các tỉnh. - Liên kết hợp tác trong lĩnh vực du lịch và thương mại: Trong trường hợp này nên mở rộng không gian liên kết, Thành phố Hà Nội phải là trung tâm thương mại lớn với các Tập đoàn thương mại tầm cỡ để điều hành mạng lưới bán buôn, bán lẻ của toàn vùng. Trong đó các siêu thị, trung tâm giao thương tầm cỡ khu vực và quốc tế như Metro, BigC, FiviMart hoặc Hapro… giữ vai trò then chốt. Mỗi Tập đoàn thương mại hình thành chuỗi cung ứng và phân phối tại các địa phương trong vùng. Đồng thời, Hà Nội làm chức năng Trung tâm phát tuyến du lịch hấp dẫn tới các địa phương như Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Nguyên và xa hơn là tới Thanh Hóa, Việt Trì, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang… Các Tập đoàn thương mại và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Hà Nội sẽ làm nòng cốt. - Liên kết hợp tác trong lĩnh vực sản xuất nông sản thực phẩm sạch: Các địa phương sẽ cung cấp thực phẩm an toàn, chất lượng cao cho Hà Nội (nổi bật là cà chua bi, dưa chuột bao tử, bí, xúp lơ, xu hào, bắp cải, cải xanh, thịt, trứng, trái cây, thủy sản…). Trong tương lai không xa, lượng khách du lịch tới Hà Nội sẽ rất lớn, vào năm 2020 lượng khách du lịch đến Hà Nội có thể vượt con số 14-15 triệu lượt khách một năm. Chỉ tính trung bình khoảng 4 ngày lưu trú thì với lượng du khách như vậy sẽ có nhu cầu rau thực phẩm, thịt, trứng, trái cây sạch, thủy sản đã là rất lớn (khoảng 14-15 vạn tấn rau, 7 vạn tấn thịt, 6 vạn tấn trái cây, 5-6 vạn quả trứng, hàng chục vạn tấn thủy hải sản…). Các địa phương có thể hình thành những khu nông nghiệp công nghệ cao để cung cấp rau, thịt, trứng, cá nước ngọt, trái cây và cây cảnh cho Hà Nội. Hà Nội có trách nhiệm tổ chức sáng chế công nghệ thu hoạch, bảo quản, chế biến và tổ chức tiêu thụ, mà trước hết là tiêu thụ tại các khách sạn, các siêu thị và hệ thống chợ. - Liên kết hợp tác trong lĩnh vực hoạt động công nghiệp: Đây là lĩnh vực quan trọng chủ yếu nhất mà đề tài quan tâm, nên sẽ được nêu cụ thể hơn ở giải pháp tiếp sau đây. 2.4.Tập trung phát triển một số cụm ngành công nghiệp lợi thế của Vùng, điểm nhấn đột phá cho hợp tác liên kết công nghiệp Vùng Thủ đô. Chúng tôi cho rằng, Hà Nội nên tập trung phát triển các ngành CNHT và do đó hình thành những khu vực làm chức năng công nghiệp vệ tinh cho Hà Nội. Chẳng hạn, nổi bật là khu vực Vĩnh Phúc tập trung công nghiệp máy tính và phụ kiện, thiết bị quang học và linh kiện, lắp ráp ô tô. Bắc Ninh có thể là khu vực tập trung công nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị nghe nhìn, thiết bị y tế, thực phẩm, nước giải khát. Hải Dương là khu vực tập trung công nghiệp cơ khí nông nghiệp và lắp ráp ôtô. Hưng Yên tập trung công nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ xây dựng, sản xuất điện, may mặc… nhằm tạo ra một không gian công nghiệp hợp lý trên phạm vi vùng kinh tế lớn 4. Hà Nội làm nòng cốt để phát triển công nghiệp phụ trợ của vùng xung quanh. Hà Nội nên hình thành một số khu công nghiệp chuyên môn hóa đảm nhận chức năng sản xuất sản phẩm phụ trợ cho cả vùng Bắc Bộ chứ không chỉ trong phạm vi vùng Đồng Bằng sông Hồng. Muốn vậy phải xác định sản phẩm đầu ra của công nghiệp phụ trợ ở vùng xung quanh là gì? Dù thế nào đi nữa thì sản phẩm đầu ra của công nghiệp phụ trợ có lẽ phải là thiết bị, phụ tùng, phụ kiện đi kèm, vật liệu, mạng mạch cho các sản phẩm điện tử… Vậy để có được những sản phẩm đầu ra như thế nhất thiết phải có công nghệ chế tạo, vật liệu mới, thép cao cấp, vật liệu thay thế… Muốn có công nghệ chế tạo hoặc muốn có những thiết bị điện tử có lẽ đối với nước ta vẫn phải nhập công nghệ, thiết bị bán dẫn và thiết bị tự động hóa. Phần còn lại ở nước ta nói chung hay ở vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng, phải nhanh chóng phát triển luyện thép cao cấp, nghiên cứu sáng chế vật liệu mới, vật liệu thay thế và từng bước tiến tới chế tạo được công nghệ. Trước tình hình như thế, Hà Nội nên giữ vai trò nòng cốt trong việc nghiên cứu phát minh, sáng chế vật liệu mới hay vật liệu thay thế và phát minh công nghệ chế tạo đi kèm. Từ cách đặt vấn đề như vậy đi đến xác định nội dung liên kết kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp giữa Hà Nội với các địa phương. Trên cơ sở lý thuyết chuỗi giá trị sản xuất - khoa học đối với công nghiệp điện tử, máy tính, cơ khí chế tạo máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng, vận tải… Hà Nội nắm giữ vai trò quyết định về sáng chế, sản xuất thử và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Đồng thời, giữ vai trò hạt nhân trong việc để các doanh nghiệp trên địa bàn các địa phương tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và tham gia mạng phân phối toàn cầu. Cả vùng Đồng bằng sông Hồng sẽ có khoảng 75-80 khu công nghiệp vào sau năm 2020 và nhu cầu liên kết với Hà Nội là rất lớn. Hà Nội nên hình thành một khu sinh dưỡng công nghiệp để đảm nhận chức năng nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, công nghệ cho những nhà máy công nghiệp đang hoạt động ở những khu công nghiệp của các địa phương… Như đã nói, sự phát triển công nghiệp thế giới đi theo hướng hình thành mạng sản xuất và các cụm ngành. Cluster được hiểu như gắn với các không gian lãnh thổ và có sự phân công hợp tác sản xuất chuyên môn hóa theo các công đoạn từ thượng nguồn tới hạ nguồn và theo các lĩnh vực sản xuất chính, sản xuất phụ trợ. Các Cluster có thể phù hợp với một khu cụm công nghiệp hoặc cũng có thể vượt ra ngoài khuôn khổ một khu cụm công nghiệp, tức là gồm nhiều khu cụm công nghiệp, thậm chí bố trí ở nhiều quốc gia. Trong đó, có những hoạt động cốt lõi hay doanh nghiệp chủ chốt nắm giữ việc điều hành mọi hoạt động của mạng và các bí quyết, công nghệ nguồn (thường là các tập đoàn xuyên quốc gia TNC). Trong những điều kiện, phạm vi hợp tác liên kết vùng Thủ đô, theo chúng tôi, có một số cụm ngành đã, đang có triển vọng hình thành và phát triển thành các mạng hay liên kết công nghiệp Vùng sau đây 5. Phát triển cụm ngành dệt may: Ngành chọn địa bàn Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng Thủ đô, định hướng lấy Hà Nội là trung tâm làm dịch vụ, cung cấp nguyên phụ liệu, công nghệ, mẫu mốt, với các cơ sở may sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Các cơ sở sản xuất di dời về các Khu công nghiệp ở các tỉnh như: Hoà Xá (Nam Định), Nguyễn Đức Cảnh (Thái Bình), Phố Nối B (Hưng Yên), Đồng Văn (Hà Nam), Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình. Tại khu vực này đã quy hoạch hình thành một cụm công nghiệp may xuất khẩu và ba khu công nghiệp dệt nhuộm hoàn tất tập trung. Đầu tư một nhà máy sản xuất xơ Polyester công suất 160.000 tấn/năm tại Khu công nghiệp Đình Vũ (Hải Phòng). Vùng Đông Bắc và Tây Bắc Bộ, phát triển vùng trồng bông, nguyên liệu tơ tằm ở Sơn La, Điện Biên. Vùng Tây nguyên định hướng đẩy mạnh chuyên môn hoá các cây nguyên liệu dệt như dâu tằm, bông... gắn liền với chế biến cung cấp cho thị trường xuất khẩu và nội địa. Các chính sách và giải pháp về đầu tư, bao gồm xây dựng các khu, cụm công nghiệp dệt nhuộm tập trung. Đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp dệt nhuộm tập trung, đảm bảo các điều kiện hạ tầng kỹ thuật, cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và nguồn lao động có khả năng đào tạo để thu hút đầu tư vào ngành dệt nhuộm. Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, ngành Dệt May Hà Nội và vùng Thủ đô cần tiến hành các giải pháp sau: - Xây dựng cụm công nghiệp hỗ trợ dệt may Vùng Thủ đô: Cơ sở hạ tầng của cụm công nghiệp hỗ trợ dệt may đòi hỏi có qui mô, đồng bộ, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường. Địa bản có thể là Vùng phía Đông và Đông Nam Hà Nội thuộc Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định. Xây dựng các khu công nghiệp công nghệ cao, ưu tiên đầu tư xây dựng tổng thể, đảm bảo cung ứng đầy đủ điện, nước, ở vị trí địa lý thuận lợi cho việc vận chuyền và thông tin liên lạc. Qui hoạch các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm phụ trợ gần các doanh nghiệp sản xuất dệt may. - Phát triển khoa học công nghệ cho công nghiệp hỗ trợ dệt may: Đầu tư vào khoa học công nghệ là chìa khóa để phát triển công nghiệp hỗ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may Việt Nam nói riêng. Bên cạnh việc tiếp thu và nhận chuyển giao công nghệ từ các đối tác, các nhà đầu tư nước ngoài thì nhà nước phải có chiến lược đầu tư xây dựng các khu công nghệ cao, - Phát triển nguồn nhân lực trong công nghiệp hỗ trợ dệt may: cần khắc phục tình trạng thiếu kĩ sư cũng như cán bộ quản trị doanh nghiệp dệt may trầm trọng như hiện nay, mặc dù tình trạng này có thể kéo dài trong nhiều năm tới. Đầu tư xây dựng các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kĩ thuật, chuyên gia thiết kế thời trang của Vùng đáp ứng yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại, nhằm tạo được một đội ngũ công nhân có tay nghề cao. - Chính sách hỗ trợ tài chính trong công nghiệp hỗ trợ dệt may: tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn, nhất là cho thực hiện các dự án đầu tư phát triển trong công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may đa phần là các dự án có nhu cầu vốn lớn so với các dự án đầu tư vào ngành may, đồng thời thời gian hoàn vốn tương đối dài (trung bình 10-15 năm). Như vậy, Nhà nước và Thành phố cần ưu tiên bố trí các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cạnh tranh đối với các dự án này. - Tăng cường liên kết DN trong và ngoài nước phát triển CNHT dệt may. Phát triển cụm ngành cơ khí ô tô: Quy hoạch phát triển ngành khuyến khích việc bố trí các dự án sản xuất, lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng tại 3 vùng kinh tế trọng điểm và các địa bàn lân cận nhằm tận dụng các lợi thế sẵn có. Miền bắc gồm các tỉnh, thành phố trong và giáp ranh khu vực Tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Chính sách và giải pháp về đầu tư hướng tới các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp hỗ trợ, sản xuất động cơ, phụ tùng, linh kiện ô tô, đặc biệt là các dự án đầu tư với quy mô công suất lớn, sản xuất sản phẩm chất lượng cao phục vụ cho chương trình nâng cao tỷ lệ sản xuất trong nước và xuất khẩu, được hưởng đầy đủ các chính sách ưu đãi theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với chính sách và giải pháp về KHCN, Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho hoạt động R&D trong công nghiệp ô tô. - Giải pháp phát triển thị trường ô tô trong nước: Để thị trường ô tô Việt Nam có sự phát triển mạnh và vững chắc, cần điều chỉnh các chính sách về thuế và phí để giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, dẫn đến giảm giá xe, người dân có nhiều cơ hội để sở hữu ô tô. Song song với chính sách mở rộng phát triển cần có những chính sách bảo vệ thị trường trước sự phát triển nhanh chóng của xe nhập khẩu, kiểm soát chặt chẽ việc quản lý xe nhập khẩu, nhất là hạn chế gian lận thương mại. - Các giải pháp phát triển sản phẩm: Theo thống kê các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô có khoảng 30.000 danh mục với các yêu cầu khác nhau về kỹ thuật sản xuất và công nghệ. Vì vậy cần xây dựng danh mục các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô, điều này giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các công ty có sự nhìn nhận rõ ràng về công nghiệp hỗ trợ ô tô, không đồng nhất việc phát triển công nghiệp hỗ trợ với nâng cao tỷ lệ nội địa. Việc xây dựng danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ bao gồm cả việc đánh giá mức độ công nghệ hay hàm lượng kỹ thuật trong sản phẩm. Trên cơ sở danh mục này, cần thiết có sự định vị Việt Nam và vùng Thủ đô trong chuỗi cung ứng toàn cầu đối với quá trình sản xuất ô tô. Từ đó lựa chọn hỗ trợ phát triển những sản phẩm phù hợp trình độ kỹ thuật của Việt Nam và Hà Nội để có thể cạnh tranh và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Biểu thuế nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô phải điều chỉnh dựa trên danh mục chi tiết và lợi thế so sánh của Hà Nội đối với từng danh mục. Vùng Thủ đô hỗ trợ việc nghiên cứu ứng dụng sản phẩm, thành lập Trung tâm nghiên cứu ứng dụng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô. Các trung tâm này có thể do nhà nước đầu tư có sự liên kết chặt chẽ với các công ty lắp ráp và các nhà cung cấp hàng đầu thế giới, hoặc do các công ty đầu tư với sự trợ giúp của chính phủ. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. Việc này một mặt nhằm tăng khả năng công nghệ cho ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo tiền đề để xúc tiến xuất khẩu, còn nhằm ngăn chặn nguy cơ xuất hiện các sản phẩm kém chất lượng ảnh hưởng tới sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ. - Giải pháp xây dựng các khu cụm linh kiện công nghiệp ô tô: Thành lập các khu, các cụm công nghiệp sản xuất linh kiện ô tô tại Bắc Ninh, Vình Phúc, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia sản xuất các sản phẩm hỗ trợ hoặc cung cấp nguyên phụ liệu cho việc sản xuất linh phụ kiện. Các công ty lắp ráp ô tô Việt Nam thường tập trung ở ngoại vi Hà Nội hoặc TP. Hồ Chí Minh, các cụm công nghiệp hỗ trợ ô tô cũng nên được thành lập gần các địa điểm này, làm cơ sở hình thành tổ hợp ô tô, theo đó các công ty lắp ráp ở trung tâm, xung quanh là các công ty cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Điều này giúp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ dễ dàng tiếp cận thị trường nội địa, các công ty có thể dễ dàng tiếp nhận những trợ giúp của công ty lắp ráp, tăng cường sự hợp tác giữa các công ty trong tổ hợp. Bên cạnh, mở rộng hạ tầng giao thông từ các cụm công nghiệp nối với sân bay, cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. - Giải pháp thu hút đầu tư và công nghệ: Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước có các dự án chuyển giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp trong nước để phát triển công nghiệp hỗ trợ ô tô. Khuyến khích các công ty trong và ngoài nước thiết lập các quy trình quản lý chất lượng, bảo vệ môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế. Củng cố vai trò của hiệp hội các nhà sản xuất ô tô, thành lập hiệp hội các nhà sản xuất linh phụ kiện ô tô, giống như mô hình của Nhật Bản và Thái Lan. Phát triển cụm ngành công nghiệp điện tử - thông tin: Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 về “Phê duyệt Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam tới năm 2010 và định hướng tới năm 2020” xác định: Phát triển ưu tiên công nghiệp công nghệ thông tin phục vụ đắc lực cho CNH-HĐH, an ninh, quốc phòng; ưu tiên một số sản phẩm có tính thiết thực và hiệu quả KT-XH cao; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới, khai thác tốt lợi thế so sánh và nâng dần giá trị gia tăng nội sinh cho sản phẩm; phấn đấu đến năm 2020 đạt tốc độ tăng trưởng 20%/năm và tổng doanh thu 15 tỷ USD. Phát triển công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung thông tin đồng bộ với mở rộng, phát triển mạng truyền thông. Duy trì tốc độ tăng trưởng công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung thông tin ở mức bình quân 40% một năm. Phấn đấu để Việt Nam trở thành một trung tâm của khu vực về lắp ráp thiết bị điện tử, máy tính và viễn thông, sản xuất một số chủng loại linh, phụ kiện và thiết kế chế tạo thiết bị mới. - Giải pháp về vốn: Hiện nay, nguồn vốn vay do các công ty, tổ chức tài chính cung cấp thiên về cho vay ngắn hạn và khả năng tiếp cận của doanh nghiệp ngành CNHT điện tử đến những nguồn vốn vay dài hạn còn hạn chế. Chủ trương chỉ ưu tiên cho vay đối với những doanh nghiệp có thành tích kinh doanh cũng làm hạn chế thêm khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của những doanh nghiệp ngành CNHT điện tử, do đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành tích kinh doanh ít nhiều bị hạn chế. Để xây dựng được một ngành CNHT trên tầm chiến lược quốc gia, Nhà nước cần thiết lập định chế tài chính và hệ thống hỗ trợ tín dụng, bảo lãnh tín dụng cho những doanh nghiệp này, những đối tượng không có tài sản thế chấp. Cùng với việc tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp ngành CNHT điện tử, Nhà nước cũng cần đưa ra những ưu đãi kết hợp giữa chính sách tín dụng và chính sách hỗ trợ bằng tín dụng ưu đãi, kết hợp với bảo đảm tín dụng và bù lãi suất cho đối tượng tham gia vào ngành CNHT điện tử còn non trẻ trong nước. - Giải pháp vê công nghệ: Điểm mấu chốt ở phần chính sách công nghệ này là việc đầu tư vào công tác khoa học công nghệ của ngành CNHT điện tử cần phải có chiến lược rõ ràng. Theo đó, việc xây dựng hệ thống các phòng đo kiểm chất lượng sản phẩm CNHT điện tử và cho ban hành các chuẩn quốc gia tương thích hoá các công nghệ và sản phẩm CNHT phục vụ ngành điện tử trong điều kiện của Việt Nam. - Giải pháp về nguồn nhân lực: Một số chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước đã nhận định, công nghiệp hỗ trợ yếu do nguồn nhân lực kém. Có chuyên gia Nhật Bản còn nhận xét: “Việt Nam không sử dụng được nguồn nhân lực ưu tú của mình”. Nguyên nhân của những yếu kém này trước hết là do nguồn nhân lực thiếu sự tích luỹ về trình độ công nghệ do sự chậm trễ trong chuyển giao công nghệ, yêu cầu về hiệu suất cao và về các tiêu chuẩn của sự tin cậy trong chất lượng sản phẩm, chi phí, thời hạn giao hàng, dịch vụ và tốc độ. Nguồn nhân lực giá rẻ sẽ không còn là một lợi thế cạnh tranh cho thu hút FDI khi các thoả thuận về miễn giảm thuế nhập khẩu chính thức được thực hiện. Do đó, cần phải đào tạo được nguồn nhân lực có khả năng quản lý, sản xuất ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Vấn đề lớn nhất về nguồn nhân lực hiện nay là thiếu khả năng ứng dụng và tính sáng tạo, các giám đốc, quản đốc nhà máy thiếu sự chủ động trong tổ chức và quản lý của mình. Giải quyết bài toán nhân lực, qua đó thúc đẩy sự ngành CNHT điện tử, xin đề xuất Nhà nước một số chính sách cụ thể sau đây: Một là, xây dựng cơ chế phối hợp ba bên: doanh nghiệp - viện, trường - cơ quan quản lý nhà nước, để đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao, có khả năng ứng dụng và triển khai, có năng lực quản lý,… theo yêu cầu của doanh nghiệp. Đồng thời xây dựng các chính sách hợp tác với các doanh nghiệp FDI tại Việt nam để thực hiện chế độ thực tập, cọ sát với thực tế nhằm nâng cao tay nghề và khả năng ứng dụng thực tiễn tốt ngay khi bắt tay vào công việc. Hai là, có chính sách hỗ trợ đặc biệt về tài chính để gửi được những người ưu tú ra nước ngoài đào tạo về công nghệ, kỹ thuật của ngành CNHT, qua đó hình thành đội ngũ kỹ sư có năng lực thiết kế, chế tạo sản phẩm ngành CNHT điện tử. Ba là, xây dựng các trung tâm đào tạo công nghệ và các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, trung tâm dữ liệu ngành CNHT điện tử phục vụ các doanh nghiệp ngành. Bốn là, giải quyết thoả đáng mối liên hệ giữa đào tạo, sử dụng và đãi ngộ; giữa đào tạo và đào tạo lại; Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào CNHT tổ chức đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ. 3. Các kết luận Hợp tác liên kết vùng và phát triển không gian công nghiệp, tạo dựng ngành CNHT và gắn kết các DN sản xuất nội địa với DN nước ngoài, thông qua đó các địa phương và quốc gia có thể tăng cường NLCT, nâng cấp công nghệ, tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu đang là một xu thế mới trong tổ chức và phân công lao động quốc tế dưới tác động của tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa và đổi mới công nghệ. Trình độ thấp trong công nghiệp của Việt Nam và Hà Nội thể hiện ở năng lực công nghệ yếu kém, tổ chức không gian sản xuất, phát triển CNHT và cụm ngành chuyên môn hóa còn bất cập hạn chế và vì vậy, khả năng hợp tác liên kết Vùng và nhất là tham gia vào hợp tác phân công lao động quốc tế thấp. Hà Nội và Vùng Thủ đô được coi là trung tâm kinh tế - công nghiệp lớn ở phía Bắc, nhưng đáng tiếc chưa tạo được động lực tăng trưởng cần thiết và sức hấp dẫn lan tỏa, nhất là thiếu sự hợp tác liên kết Vùng và chưa tạo dựng ngành CNHT để có thể phát triển và hội nhập thành công vào mạng sản xuất quốc tế. Trong giai đoạn tới, việc hoạch định chiến lược CNH-HĐH và xây dựng các ngành CNHT của Việt Nam và của Thủ đô Hà Nội, nhất là định hướng hợp tác liên kết công nghiệp Vùng Thủ đô, thiết nghĩ cần phải đảm bảo các định hướng sau: - Xác định đúng lợi thế cạnh tranh động và vị trí của các ngành, lĩnh vực của Hà Nội và Vùng Thủ đô trong mạng sản xuất khu vực và toàn cầu. Từ đó đưa ra các biện pháp chính sách cụ thể, và phù hợp cho từng giai đoạn và từng ngành công nghiệp. Hình thành và xây dựng các không gian công nghiệp, trước hết là không gian Vùng dựa trên mô hình mạng sản xuất và cụm ngành, đảm bảo các không gian này không chỉ là nơi cung cấp hạ tầng tốt mà ở đó các nhà lắp ráp, các nhà cung ứng, các nhà sản xuất phụ kiện có thể gặp gỡ và thiết lập được quan hệ sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng, tiết kiệm, hiệu quả. - Thay đổi chiến lược thu hút đầu tư nói chung và FDI nói riêng vào vùng Thủ đô trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các công ty xuyên quốc gia - vốn là các DN chủ đạo dẫn dắt các chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu trong việc định hướng phát triển hợp tác liên kết các ngành công nghiệp Vùng và nước ta. Các công ty này cần phải được xem như là nguồn động lực phát triển các ngành công nghiệp trong nước, do đó cần phải tìm cách thu hút bằng cách khuyến khích ưu đãi đầu tư và phải bằng cả việc mở cửa thị trường. Hơn nữa, các chính sách bảo hộ kiềm chế thị trường trong nước khó có thể thu hút các công ty nước ngoài vào làm ăn với Việt Nam; nói cách khác, chúng ta phải thực hiện chiến lược hai giai đoạn: “đổi thị trường lấy công nghệ” và sau đó “dùng công nghệ để giành lại thị trường”. - Thay đổi nhận thức đối với công nghiệp hỗ trợ và hợp tác liên kết, có liên kết Vùng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chiến lược phát triển công nghiệp của bất cứ quốc gia nào cũng phải được xây dựng dựa trên khả năng cạnh tranh quốc tế. Khả năng cạnh tranh quốc tế lại được xây dựng bằng nhiều yếu tố như chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, chi phí thời gian, chuyên môn hóa tiếp thị và dịch vụ hậu mãi. Nhân tố hạ chi phí sản xuất lại chính là việc sẵn có sản phẩm CNHT trong nước. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thường được sản xuất với số lượng lớn nên giá thành hạ do tính kinh tế theo qui mô sản xuất. Đối với một số ngành, CNHT chiếm tới 85-95% giá trị sản xuất công nghiệp. CNHT lại chỉ có thể là kết quả của sự hợp tác liên kết sản xuất chặt chẽ mang tính chất vùng, quốc gia và quốc tế. - Thực hiện chiến lược “chuẩn hóa sản xuất công nghiệp”, coi đây là yêu cầu của hợp tác liên kết sản xuất công nghiệp, bước đi đầu tiên trong việc tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất trong nước và quốc tế. Các biện pháp kinh tế và hành chính cần phải được thực hiện một cách đồng bộ để đảm bảo rằng các sản phẩm được sản xuất ra có tính đồng bộ, có độ tin cậy cao nhằm thông qua đó tạo dựng lòng tin với các doanh nghiệp nước ngoài và từng bước tạo ra một sự phân công lao động và liên kết công nghiệp chặt chẽ dưới dạng cấu trúc mạng. - Thủ đô Hà Nội và Vùng Thủ đô để thực hiện tốt chiến lược CNH và các yêu cầu trên, phấn đấu mục tiêu cơ bản CNH vào các năm 2020-2030, cần đẩy mạnh hợp tác liên kết công nghiệp Vùng và tăng cường khả năng hội nhập sản xuất công nghiệp Vùng vào các mạng sản xuất toàn cầu bằng cách thông qua thiết lập các thể chế quản trị Vùng cần thiết, đổi mới thu hút và liên kết với doanh nghiệp FDI, quy hoạch lại không gian công nghiệp và xây dựng các cụm ngành có tính liên kết, khuyến khích đổi mới công nghệ và chất lượng đào tạo nhân lực, phát triển kết nối hạ tầng công nghiệp, nhất là hạ tầng các khu cụm công nghiệp (KCCN) và tái cấu trúc các KCCN hiện có của Vùng Thủ đô theo hướng tổ chức cụm ngành để đáp ứng yêu cầu sản xuất CNHT cho Vùng và cả nước./.