Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới
Logo
Đăng ký ấn phẩm|Đăng nhập

Liên kết vùng để bảo tồn, phát huy giá trị di sản

Kinhtedothi - Xu hướng liên kết vùng để phát triển các sản phẩm công nghiệp văn hóa, bảo tồn di sản là một trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng.

Gia tăng sức mạnh

Theo PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu - Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là địa phương đi đầu cả nước trong phát triển công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, để công nghiệp văn hóa Hà Nội phát huy hết tiềm năng, việc “đứng riêng một mình” là chưa đủ.

Du khách nước ngoài thích thú tham gia workshop làm các sản phẩm thủ công nghệ thuật từ giấy dó truyền thống Việt Nam. Ảnh: Chạm dó

Liên kết vùng giữa Hà Nội và các tỉnh trong khu vực không chỉ giúp chia sẻ nguồn lực, bổ trợ điểm mạnh cho nhau mà còn tạo sức mạnh tổng hợp, hình thành thị trường và không gian phát triển rộng lớn hơn cho công nghiệp văn hóa. Các địa phương trong vùng khi kết nối với Hà Nội cũng có cơ hội thúc đẩy kinh tế địa phương, nhất là trong các lĩnh vực du lịch, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn… thông qua việc tham gia chuỗi giá trị văn hóa chung.

Một trong những ví dụ điển hình là liên kết bảo tồn, phát huy giá trị di sản của các làng nghề, nghề truyền thống. Theo TS Nguyễn Thị Thanh Hòa - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, làng nghề giấy dó là một trong số những làng nghề thủ công truyền thống xuất hiện lâu đời ở làng Yên Thái (nay thuộc phường Bưởi, Hà Nội) nhưng nay đã thất truyền, sau đó lan truyền và phát triển mạnh ở làng Đống Cao (phường Phong Khê, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) song hiện nay nghề này ở Đống Cao đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Trong khi đó, làng nghề làm giấy bản của người Dao đỏ ở thôn Thanh Sơn (huyện Bắc Quang, Hà Giang) và nghề làm giấy dó của người Nùng ở bản Lũng Ỏ (xã Phúc Sen, Cao Bằng) đang phát triển với quy mô lớn, dần trở thành điểm du lịch được nhiều du khách quan tâm.

Nhận thấy giá trị lịch sử, văn hóa, kinh tế của làng nghề, hiện nay, một số nhóm bạn trẻ ở Hà Nội đã bắt đầu quan tâm đến nghề làm giấy dó và đã hình thành nhiều dự án khôi phục, bảo tồn, quảng bá nghề làm giấy dó của làng Yên Thái xưa đến khách du lịch.

Một trong những dự án tiêu biểu là “Chạm dó” của Lê Hồng Kỳ sáng lập từ năm 2021, với mong muốn tái sinh nghề cổ truyền nổi tiếng của Thăng Long đã bị thất truyền. Lê Hồng Kỳ đã mở một workshop trên phố Châu Long, hàng ngày chị vẫn sản xuất giấy dó theo quy trình truyền thống để tạo ra những sản phẩm thủ công đáp ứng thị hiếu của giới trẻ và nhu cầu tiêu dùng hiện nay như làm menu bằng giấy dó cho các khách sạn, quán trà, cà phê, spa, đặc biệt là bộ sản phẩm quà tặng khách hàng trong các khách sạn 5 sao...

Với đồng bào người Dao đỏ, người Nùng, giấy dó vẫn thịnh hành bởi đáp ứng nhu cầu về phong tục và tín ngưỡng truyền thống của người dân. Trong bốn địa phương cùng làm nghề giấy dó thì Cao Bằng, Hà Giang cần phối hợp để quy hoạch trở thành nơi cung cấp nguyên liệu cho Hà Nội, Bắc Ninh. Ngược lại, Hà Nội, Cao Bằng, Hà Giang là địa bàn trao đổi, tiêu thụ sản phẩm giấy dó cho làng Đống Cao ở Bắc Ninh…

Nghề làm giấy dó ở làng Đống Cao (phường Phong Khê, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Viết Sơn

“Như vậy, người làm nghề ở bốn địa phương này cần liên kết với nhau tạo thành mạng lưới khép kín từ nguồn nguyên liệu, sản xuất sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm. Sau đó khai thác để trở thành chuỗi điểm du lịch làng nghề cùng làm giấy dó, phục vụ nhu cầu du khách quan tâm đến tham quan, trải nghiệm quy trình sản xuất hoặc sáng tạo ra sản phẩm từ chất liệu giấy dó truyền thống” - TS Nguyễn Thị Thanh Hòa chia sẻ.

Phát huy tối đa tiềm năng văn hóa

Liên kết vùng trong phát triển công nghiệp văn hóa trở thành đòi hỏi tất yếu để Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng tận dụng tối đa tiềm năng văn hóa, tạo bứt phá trong giai đoạn tới. Thực tiễn cho thấy, sức mạnh văn hóa – sáng tạo của Hà Nội sẽ được nhân lên gấp bội khi cộng hưởng với những di sản và nguồn lực đặc sắc từ các địa phương lân cận.

Liên kết vùng cũng chính là chìa khóa để hình thành những cụm ngành văn hóa liên vùng, những sản phẩm văn hóa – du lịch có thương hiệu tầm cỡ quốc gia và khu vực, đưa văn hóa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như kỳ vọng.

Theo TS Nguyễn Thị Thanh Hòa, trước khi tiến hành việc liên kết vùng đáp ứng yêu cầu phục dựng, bảo tồn làng nghề thủ công và sản phẩm nghề truyền thống, phải xác định giá trị của di sản văn hóa làng nghề chính là các dấu vết lịch sử hiện còn. Trong quá trình phục dựng, bảo tồn, phải lấy việc bảo tồn những giá trị nguyên gốc từ nguồn nguyên liệu, quy trình sản xuất, loại hình sản phẩm để phát huy, chứ không phải tạo ra một loại sản phẩm thủ công mới.

Du khách nước ngoài hào hứng mua sản phẩm thủ công từ giấy dó trong sự kiện Hà Nội Art Fair tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Ảnh: Chạm dó

Đồng thời đẩy mạnh việc đưa làng nghề vào chương trình du lịch, vừa để quảng bá hình ảnh làng nghề và sản phẩm nghề truyền thống vừa góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Nhà nước cần hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển liên kết vùng gắn với phát triển bền vững về kinh tế và an sinh xã hội, trong đó có du lịch văn hóa.

Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa làng nghề truyền thống gắn với việc bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên để làng nghề phát triển bền vững. “Để liên kết vùng trong việc phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa làng nghề truyền thống gắn với phát triển kinh tế - xã hội đạt được hiệu quả cần huy động trí tuệ, công sức, sáng kiến của toàn xã hội từ nhiều phía: nhà quản lý, cộng đồng dân cư, các cơ quan truyền thông, các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực di sản” - TS Nguyễn Thị Thanh Hòa nêu quan điểm.

Theo Phó Giám đốc Sở VHTT&DL tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Văn Đáp, vùng đồng bằng sông Hồng có đặc trưng nổi trội không chỉ về giá trị di sản mà còn phong phú cả về ẩm thực, trang phục, đến các làng nghề truyền thống. Đặc biệt, các làng nghề trong vùng là hiện thân sinh động của lịch sử lâu đời của người Việt cổ, như làng Ngũ Xã (Hà Nội) nổi tiếng với nghề đúc đồng, làng gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), lụa Hà Đông (Hà Nội), gốm Chu Đậu (Hải Dương)…

“Tận dụng di sản văn hóa và lịch sử là một cơ hội lớn để tạo ra các sản phẩm trải nghiệm du lịch văn hóa độc đáo. Lấy Thủ đô Hà Nội là trung tâm, có thể mở rộng không gian và phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa mới đến các địa phương, phát triển thử nghiệm các sản phẩm du lịch văn hóa đêm, du lịch đường phố... nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của các tỉnh, TP trong khu vực” – ông Nguyễn Văn Đáp nói.

Du khách tham quan Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.

Một trong những yếu tố quan trọng của liên kết vùng là cần thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong công nghiệp văn hóa liên vùng, xóa nhòa khoảng cách địa lý, tạo môi trường kết nối ảo cho các chủ thể văn hóa vùng. Trước hết, cần đẩy mạnh số hóa các di sản văn hóa trong vùng về di tích, lễ hội, làng nghề… của từng địa phương và tích hợp vào một hệ thống chung, hình thành nên bản đồ số các điểm di sản kèm thông tin thuyết minh, hình ảnh 3D, video… để người dùng khám phá trực tuyến.

Ví dụ phát triển ứng dụng AR cho phép du khách khi đến Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) có thể hướng điện thoại vào hiện trường và xem hình ảnh tái hiện điện Kính Thiên xưa, đồng thời giới thiệu các di tích liên quan ở Nam Định (như Phủ Thiên Trường thời Trần). Hay sử dụng công nghệ VR để tạo tour tham quan ảo liên tỉnh: du khách ngồi tại Hà Nội đeo kính VR có thể tham quan lần lượt chùa Keo (Thái Bình), đền Trần (Nam Định), chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) với hướng dẫn viên ảo. Những trải nghiệm số sáng tạo này sẽ khuyến khích họ tìm đến tham quan thực tế sau đó.

“Hà Nội – với vai trò là trung tâm dẫn dắt vùng phải chủ động, năng động hơn nữa trong việc khởi xướng các sáng kiến liên kết, hỗ trợ và điều phối các tỉnh bạn cùng phát triển. Sự thành công của Hà Nội trong lĩnh vực này sẽ là hình mẫu lan tỏa, tạo động lực cho các vùng miền khác ở Việt Nam trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đưa văn hóa Việt vươn ra thế giới” - PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu nhận định.

Phát triển trung tâm công nghiệp văn hóa: thu hút nguồn lực đầu tư tư nhân

Phát triển trung tâm công nghiệp văn hóa: thu hút nguồn lực đầu tư tư nhân

Đòn bẩy phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô

Đòn bẩy phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô

Đọc nhiều
HỎI ĐÁP THÔNG MINH

CẢM NHẬN CỦA BẠN VỀ BÀI VIẾT NÀY

  • Rất hay
  • Thích
  • Giải trí
  • Cần cải thiện

BÌNH LUẬN (0)

Đừng bỏ lỡ
Tin mới
VIDEO
Tin Tài Trợ