Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào, song để đưa văn hóa Việt Nam hội nhập với thế giới vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế, đòi hỏi phải có một đề án, chương trình hành động bài bản. Trên thực tế, những lo ngại về tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tới văn hóa không chỉ của riêng Việt Nam, mà là nỗi lo chung của nhiều nước trên thế giới. Bởi vậy, Công ước “Bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa” năm 2005 của UNESCO đã khuyến khích các quốc gia ban hành chính sách, pháp luật về văn hóa để điều tiết tác động trái chiều của quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhận định và được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII thông qua, đưa vào Nghị quyết Đại hội: "Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay". Có thể nói, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để gia tăng quyền lực mềm của mình. Vấn đề là làm thế nào để tiếp tục viết nên một câu chuyện mới một cách thuyết phục nhất, có thể lan tỏa mạnh mẽ nhất "phiên bản Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, hữu nghị, phát triển, phồn vinh, hạnh phúc”. Để làm được điều đó, theo các chuyên gia, Việt Nam cần đóng góp thiết thực, mạnh mẽ hơn vào các vấn đề khu vực và toàn cầu, trong đó có lĩnh vực văn hóa, qua đó nâng cao hình ảnh Việt Nam, quyền lực mềm Việt Nam trên trường quốc tế.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục là một lực lượng chi phối, thúc đẩy giao thương và hợp tác giữa các quốc gia. Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển nhanh chóng đã thu hẹp khoảng cách địa lý, đẩy mạnh giao lưu văn hóa và kinh tế. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra nhiều thách thức về bảo vệ bản sắc văn hóa và an ninh kinh tế.
Để tự tin bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đặt ra đối với toàn Đảng, toàn dân ta là nâng tầm, mở rộng “sự đóng góp cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại”, để từ đó vươn lên, khẳng định Việt Nam “có vị trí, vai trò quan trọng trong nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại”. Như trong bài viết "Vươn mình trong hội nhập quốc tế", Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, hội nhập quốc tế là “đặt đất nước vào dòng chảy chính của thời đại, đập cùng nhịp đập, thở cùng hơi thở của thời đại”, gia tăng sức mạnh của mình thông qua việc gắn kết với thế giới.
Các chuyên gia nhìn nhận, khi hội nhập sâu rộng với văn hóa quốc tế, nguy cơ mai một bản sắc văn hóa dân tộc là điều không thể tránh khỏi. Việt Nam cần phải cẩn trọng trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, sự khác biệt về văn hóa có thể dẫn đến những xung đột giữa các cộng đồng, dân tộc. Điều này đòi hỏi đối thoại liên văn hóa trên cơ sở khoan dung, tôn trọng sự đa dạng văn hóa. Việc tiếp cận và chấp nhận những giá trị mới cần có thời gian và sự thấu hiểu để tránh những hiểu lầm và xung đột không đáng có.
Ngoài ra, ngôn ngữ là rào cản lớn trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần nâng cao trình độ ngoại ngữ của người dân, đồng thời bảo tồn và phát triển tiếng Việt. Đặc biệt, thách thức về công nghệ và nguy cơ tụt hậu trong việc phát triển văn hóa số cũng là bài toán đặt ra cho ngành văn hóa khi hội nhập với thế giới. Phó Vụ trưởng Vụ Xã hội - Ban Chính sách Chiến lược Trung ương Vũ Mạnh Hùng cho rằng, cần có đánh giá đầy đủ về tác động của văn hóa quốc tế đến văn hóa Việt Nam, cũng như các giá trị tích cực từ bên ngoài có thể bổ sung cho nền văn hóa nước nhà.
Theo TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ VHTT&DL), bên cạnh nhiều thuận lợi và thời cơ, văn hóa Việt Nam cũng đứng trước những thách thức khi đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình. Trước hết, nhiều vấn đề trong thể chế, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực văn hóa cần được tiếp tục hoàn thiện như chính sách và pháp luật về thuế trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm nghệ thuật và thị trường, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh đó, hành lang pháp lý để thúc đẩy sự tham gia của những đối tác và nguồn lực vào phát triển văn hóa cũng cần được hoàn chỉnh, như vấn đề hợp tác công tư trong văn hóa chưa được đề cập đến trong Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Việc thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa qua việc ban hành những thể chế và chính sách mới phù hợp hơn cũng là một vấn đề mang tính thách thức đặt ra trong giai đoạn kỷ nguyên mới này.
Cùng với đó là thách thức trong việc chuyển đổi mô hình từ quản lý tập trung sang mô hình phân cấp quản lý văn hóa mô hình quản lý của Chính phủ cần chuyển từ quản lý trực tiếp sang gián tiếp, quản lý vi mô sang vĩ mô, từ quan niệm làm văn hóa sang quản lý văn hóa. “Việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành T.Ư Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ có lúc, có nơi còn chậm, chưa đồng bộ. Ngoài ra, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật chưa đúng tầm, đúng mức; việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật ở một số lĩnh vực còn khó khăn, hạn chế” - TS Nguyễn Thị Thu Phương nhận định.
Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay với xu thế chủ đạo là hòa bình, hợp tác cùng phát triển, văn hóa ngày càng giữ vai trò quan trọng, là động lực của sự phát triển bền vững. Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đòi hỏi phải chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, làm giàu thêm văn hóa dân tộc, quảng bá hình ảnh Việt Nam, mở rộng ảnh hưởng, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 phân tích rõ thêm, trong những năm qua, hoạt động văn hóa đối ngoại của Việt Nam cơ bản bám sát, phục vụ tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, góp phần phát huy sức mạnh đối ngoại toàn diện của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động văn hóa đối ngoại chưa thực sự được điều phối một cách tập trung trên phạm vi cả nước, chưa có một chiến lược tổng thể để phát huy tối đa những giá trị văn hóa của Việt Nam trên trường quốc tế và chủ động tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với cộng đồng thế giới, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng so với yêu cầu của công cuộc hội nhập và sự nghiệp phát triển đất nước, các hoạt động văn hóa đối ngoại của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Việc giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Số lượng các chương trình Việt Nam chủ động tổ chức hàng năm ở nước ngoài còn hạn chế do ngân sách eo hẹp. Việc tổ chức hoạt động ở các địa bàn xa xôi về mặt địa lý rất khó khăn. Nhiều đoàn nghệ thuật, đoàn triển lãm... được cử đi nước ngoài phải hạn chế số người để tiết kiệm kinh phí đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng các chương trình.
Nội dung các hoạt động văn hóa đối ngoại còn thiếu tính sáng tạo, đơn điệu, trùng lặp, chưa khai thác hết tiềm năng kho tàng văn hóa Việt Nam, chưa giới thiệu được sự phát triển của nền văn hóa, nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó, cần nhìn nhận một thực tế là Việt Nam chưa có các sản phẩm văn hóa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đơn cử trong lĩnh vực văn học, mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song theo nhận định của Bộ VHTT&DL, vấn đề đưa văn học Việt Nam hội nhập vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế. Bộ VHTT&DL đánh giá, việc giới thiệu và quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài là một phần quan trọng trong xu thế hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay việc giới thiệu, quảng bá và xúc tiến phát triển văn học chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, tổ chức với các tác giả dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa phản ánh đúng toàn diện văn học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, hoạt động dịch, phổ biến các tác phẩm văn học Việt Nam ra nước ngoài và văn học nước ngoài vào Việt Nam đang bị mất cân bằng, có hiện tượng “nhập siêu văn học”. Hầu như các đầu sách bán chạy trên thế giới đều đã có mặt ở Việt Nam ngược lại sách văn học Việt Nam xuất hiện còn khá khiêm tốn trên thị trường sách thế giới, chưa tương xứng với những giá trị của văn học Việt Nam. Theo Hội Nhà văn Việt Nam, chất lượng dịch các tác phẩm nước ngoài vào Việt Nam vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của độc giả. Nhà nước cần có cơ chế để thúc đẩy nhiều các tác phẩm văn học dịch có chất lượng tại Việt Nam.
Lãnh đạo Bộ VHTT&DL nhận định, hạn chế lớn hiện nay trong quá trình đưa văn hóa Việt Nam hội nhập là các hoạt động còn hạn chế về quy mô, chưa thể hiện được bản sắc văn hóa đa dạng, đặc sắc của dân tộc, công nghiệp văn hóa chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chưa tạo ra được các sản phẩm văn hóa có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn ít chương trình, tác phẩm và tác giả đoạt giải cao, được công nhận và vinh danh ở quy mô quốc tế. Nguyên nhân là do cơ chế chính sách đầu tư, huy động nguồn lực cho văn hóa còn chưa tương xứng. Thêm vào đó, chúng ta chưa khai thác tối đa vai trò của công nghệ số và truyền thông trong việc quốc tế hóa văn hóa Việt Nam và Việt Nam hóa văn hóa quốc tế.
Đặc biệt, lĩnh vực văn hóa còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ VHTT&DL) cho rằng, giáo dục và đào tạo trong lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật có những đặc thù riêng do đây là những lĩnh vực xã hội và thị trường ít có nhu cầu tuyển dụng. Mặc dù vậy, cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý đối với đào tạo lĩnh vực này còn có những bất cập ảnh hưởng đến hoạt động đào tạo. Đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển. Công tác tuyển sinh đầu vào gặp nhiều khó khăn; công tác khảo thí, kiểm định chất lượng của các cơ sở đào tạo còn hạn chế. Thực trạng hiện nay là số lượng sinh viên theo học các ngành văn hóa và nghệ thuật có chiều hướng giảm, nhất là với những lĩnh vực nghệ thuật truyền thống. “Trong giai đoạn sắp tới, dự báo nguồn nhân lực văn hóa nghệ thuật có thể gặp nhiều thách thức trong việc đáp ứng sự lớn mạnh của các ngành công nghiệp văn hóa trong tương lai” - TS Nguyễn Thị Thu Phương nhận định.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh thế giới biến động nhanh, phức tạp; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đô thị thông minh... đang định hình những chuẩn mực mới; cạnh tranh chiến lược, bùng nổ thông tin, "đấu tranh trên không gian mạng" diễn ra gay gắt; sự thâm nhập của các sản phẩm văn hóa ngoại lai đa dạng, nhiều chiều. Trong bối cảnh đó, văn hóa càng phải đi trước một bước, soi đường, dẫn dắt, bồi đắp bản lĩnh, củng cố niềm tin, hình thành năng lực mềm quốc gia.
Xem các bài viết liên quan đến loạt bài “Văn hóa quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới”
Bài 1: Khi văn hóa là cầu nối ngoại giao
Bài 2: Việt Nam – điểm đến của các sự kiện văn hóa tầm cỡ thế giới
Bài 3: Di sản Việt Nam tỏa sáng toàn cầu
Bài cuối: Xây dựng thương hiệu văn hóa có sức cạnh tranh toàn cầu






