
Đà tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ phản ánh sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đang phục hồi. Tuy nhiên, khi nhìn vào bức tranh rộng hơn, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP ngày càng gia tăng lại đặt ra những thách thức không nhỏ về sự phát triển bền vững. Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Đức Độ - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính (Học viện Tài chính).

Đến cuối tháng 9, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 17,71 triệu tỷ đồng, tăng 13,37% so với cuối năm 2024. Dự báo tăng trưởng tín dụng cả năm nay có thể đạt 19 - 20%, cũng là mức tăng cao nhất trong khoảng 15 năm trở lại đây. Ông đánh giá sao về những con số trên?
- Hoạt động cung ứng vốn tín dụng từ đầu năm đến nay cũng cho thấy chủ trương đẩy vốn vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế để hỗ trợ DN phục hồi, tạo động lực tăng trưởng sản xuất kinh doanh. Mặt tích cực là tăng trưởng GDP lên đến 8,23% trong quý III/2025, dự kiến cả năm có thể đạt mục tiêu trên 8%.
Tín dụng toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đạt 13,4% so với cuối năm 2024. Đây là một điểm sáng nổi bật trong bức tranh kinh tế 9 tháng đầu năm, phản ánh sự hồi phục mạnh mẽ của nhu cầu vốn và hiệu quả từ các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ.
Trong năm nay, cầu vốn tăng theo định hướng mở rộng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tiếp vốn cho cả vốn tài trợ đối ứng dự án đầu tư công và đầu tư tư nhân. Cùng với đó, vốn theo nhu cầu bất động sản cũng tăng tốc vào những tháng cuối năm. Nhu cầu vốn cho tiêu dùng nội, xuất khẩu, đều được dự báo tăng ở nhu cầu xuất khẩu các thị trường chính.

Dù tín dụng tăng trưởng mạnh, hỗ trợ mục tiêu kinh tế. Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP ở mức 134%, cao hơn nhiều quốc gia trong khu vực, sẽ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro hệ thống nếu chất lượng tín dụng không được kiểm soát chặt chẽ. Ông có đồng tình với quan điểm này không?
- Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao không chỉ cho năm nay mà còn cho cả giai đoạn tới, chính sách tiền tệ đang làm hết sức - tín dụng tăng, lãi suất giảm, thanh khoản dồi dào. Dù vậy, việc nâng cao năng lực vốn của hệ thống ngân hàng là cần thiết. Quan trọng hơn còn là định hướng nắn dòng chảy tín dụng, sao cho việc mở rộng tín dụng phải gắn liền với bảo đảm an toàn vốn vay. Ưu tiên vốn cho sản xuất, vào đổi mới sáng tạo, KHCN, tạo động lực tăng trưởng xanh và bền vững. Nếu cho vay các lĩnh vực ưu tiên, sản xuất kinh doanh có hệ số rủi ro thấp, ngân hàng sẽ tối ưu được hiệu quả sử dụng vốn.
Hiện các chỉ số vĩ mô vẫn ổn định, tỷ giá được kiểm soát tốt, lạm phát trong ngưỡng mục tiêu. Tuy nhiên, nếu đà tăng này tiếp tục kéo dài thì cần xem xét thận trọng, đặc biệt là chỉ báo về lạm phát, tỷ giá để có giải pháp ứng phó kịp thời.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục giám sát rủi ro nợ xấu và duy trì kỷ luật tín dụng nhằm bảo đảm an toàn hệ thống và tính bền vững. Tập trung thanh tra, kiểm tra các dấu hiệu sở hữu chéo; sử dụng vốn vay ngắn hạn cho vay dài hạn vượt quá quy định.


Ông đánh giá sao về tín dụng bất động sản hiện nay, cần lưu ý gì?
- Lĩnh vực bất động sản ngày càng phụ thuộc vào ngân hàng cũng là điều dễ hiểu, bởi lẽ kênh trái phiếu, cổ phiếu chưa trở thành kênh cung ứng vốn dài hạn.
Mức tăng trưởng dư nợ cho thấy nhu cầu vốn của thị trường bất động sản vẫn rất lớn, song cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Thị trường bất động sản Việt Nam đang tồn tại những nghịch lý lớn là cung cầu mất cân đối, phân khúc phát triển lệch lạc và giá nhà tăng cao ngoài tầm với.
Chỉ đạo mới đây của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát tín dụng, không để dòng tiền đi vào đầu cơ là rất kịp thời.

Để ứng phó với các bất ổn có thể xảy ra trong tương lai, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã yêu cầu các ngân hàng tuân thủ nghiêm các chỉ số an toàn tài chính, đặc biệt là các chỉ số được nêu tại Thông tư số 14/2025/TT-NHNN vừa ban hành, củng cố hệ thống cảnh báo sớm, tính trước các kịch bản ứng phó. Thông tư 14 đưa ra những cách tính hệ số rủi ro khác nhau cho từng nhóm lĩnh vực.
Riêng đối với cho vay bất động sản, hệ số rủi ro được phân ra nhiều trường hợp, như khách hàng vay mua nhà ở xã hội có hệ số rủi ro từ 20 - 50%, còn nếu vay mua nhà ở thương mại thì từ 60 - 150%, tùy thuộc vào nguồn tiền trả nợ của khách hàng vay.
Áp dụng các hệ số an toàn theo các nhóm rủi ro cho vay khác nhau, cách này cũng buộc các ngân hàng thương mại phải cân nhắc chính sách cấp tín dụng, tránh bị đọng nhiều vốn do phải bảo đảm các tỷ lệ an toàn. Các hệ số rủi ro cao đối với bất động sản có dấu hiệu đầu cơ như các trường hợp mua bất động sản thứ hai hoặc mua các dự án thương mại hoặc có dấu hiệu đầu cơ bất động sản để có thể nắn dòng vốn tín dụng chảy vào các ngành sản xuất, phục vụ sản xuất, kinh doanh nhiều hơn. Xây dựng cơ sở dữ liệu để ngăn đầu cơ, thổi giá nhằm hạn chế rủi ro.
Đồng thời, tiếp tục xây dựng các gói tín dụng phù hợp là hướng vào bất động sản có nhu cầu thật, nhà ở xã hội, nhà thu nhập thấp, để hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng bền vững.

Nhiều chuyên gia lưu ý, cần tiếp tục giám sát rủi ro nợ xấu và giám sát chặt về tỷ lệ sở hữu ngân hàng? Quan điểm của ông về vấn đề này?
- Nợ xấu vẫn còn hiện hữu khi Thông tư 02/2023 về cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn đã chính thức hết hiệu lực từ ngày 1/1/2025. Khi đó các khoản nợ tái cơ cấu không còn được ưu đãi và sẽ phải phân loại lại, có thể đẩy một lượng nợ lớn vào nhóm nợ xấu.
Do đó, cần thực hiện đồng thời các giải pháp từ điều tiết và kiểm soát vốn tín dụng trong nền kinh tế, khẩn trương xử lý nợ xấu và tiếp tục tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém để tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng lành mạnh.
Sau khi Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/7/2024, các ngân hàng phải công khai danh sách cổ đông nắm giữ từ 1% vốn điều lệ. Việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần và công khai danh sách cổ đông là biện pháp ngăn ngừa tình trạng sở hữu chéo, nhưng việc này chưa có tác động nhiều nếu cố tình lách sở hữu.
Do đó, thật sự phải có quá trình điều tra để nhận diện và xử lý các hành vi vi phạm. Nhìn chung, hiệu quả của quy định mới vẫn phụ thuộc nhiều vào việc giám sát và thực thi của cơ quan Nhà nước. Việc giám sát chặt chẽ và minh bạch sẽ bảo đảm rằng, các quy định được thực thi nghiêm túc và hiệu quả.

Fed hạ lãi suất, ông dự báo so về tỷ giá và xu hướng lãi suất thời gian tới?
- Tỷ giá vẫn còn áp lực thời gian tới. Tính đến ngày 30/9, VND đã mất giá 3,5% so với USD. Trong khi đó, USD giảm giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền như EUR (-11,6%), JPY (yên Nhật), THB (baht Thái Lan) và SGD (đô la Singapore)...
Việc VND mất giá trong bối cảnh USD suy yếu toàn cầu phản ánh áp lực tỷ giá đến từ yếu tố nội tại, bao gồm thặng dư thương mại thu hẹp, dòng vốn rút ròng và nhu cầu ngoại tệ tăng.
Thặng dư thương mại tháng 9 giảm 23,4% so với tháng trước; lũy kế 9 tháng giảm 20,4% so với cùng kỳ 2024. Thặng dư thương mại thu hẹp có thể làm gia tăng áp lực lên tỷ giá và cán cân thanh toán trong quý cuối năm, vốn là giai đoạn cao điểm về nhu cầu ngoại tệ phục vụ nhập khẩu, thanh toán quốc tế…

Về lãi suất, khi điều hành NHNN sẽ cân nhắc 3 yếu tố quan trọng nhất, bao gồm ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng.
Sức ép tỷ giá với Việt Nam vẫn còn rất lớn, dù đã giảm so với giai đoạn trước. Tính đến ngày 10/9, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch mới của các ngân hàng thương mại ở mức 6,52%/năm, giảm thêm 0,41 điểm phần trăm so với cuối năm 2024.
Việc Fed hạ lãi suất giúp sức ép tỷ giá dịu bớt, NHNN có thêm dư địa để có thể hỗ trợ lãi suất ngắn hạn, chủ yếu hỗ trợ trên thị trường liên ngân hàng. Nhờ đó, áp lực lãi suất trên thị trường 1 (giao dịch giữa các chế độ tài chính chính với doanh nghiệp và dân cư) có thể giảm phần nào, nhưng lãi suất trung và dài hạn thì áp lực vẫn còn.
Việc duy trì lãi suất như hiện tại được coi là hợp lý nhằm hỗ trợ kinh tế. Để kịch bản này thành hiện thực, xuất siêu cần được duy trì, vốn FDI giải ngân ổn định và kiều hối cuối năm chảy mạnh, tạo thanh khoản ngoại tệ.
Xin cảm ơn ông!
