
Trao đổi với PV Kinh tế & Đô thị, TS Nguyễn Trí Hiếu - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển thị trường Tài chính - Bất động sản Toàn Cầu cho rằng, quyết định bỏ room tín dụng từ năm 2026 là một cải cách táo bạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chính phủ trong việc xây dựng một hệ thống tài chính hiện đại và bền vững. Nếu được triển khai đúng cách, đây sẽ là động lực mạnh mẽ để khơi thông nguồn vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ các mục tiêu phát triển dài hạn.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẩn trương xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (room tín dụng) để thực hiện từ năm 2026. Ông nhìn nhận thế nào về tính phù hợp của bước chuyển này trong giai đoạn hiện nay?
- Tôi rất ủng hộ chủ trương này. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi sau dịch và tái cấu trúc, cần dòng vốn dồi dào, linh hoạt hơn. Lạm phát đang được kiểm soát tốt. Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nền tảng tốt hơn về quản trị rủi ro và vốn tự có.

Chính phủ đang hướng tới xây dựng nhà nước kiến tạo, thị trường đầy đủ chức năng và hành lang pháp lý hiện đại. Hạn mức tín dụng đã được NHNN áp dụng trong 14 năm nên cũng cần dỡ bỏ biện pháp hành chính này để phù hợp theo cơ chế thị trường.
Đây là một cải cách quan trọng, có thể giúp khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế, nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam phát triển bền vững hơn.
Hơn nữa, kiểm soát cung tiền qua kênh tín dụng còn nhiều công cụ khác thay thế ở tầm vĩ mô là tỷ lệ dự trữ bắt buộc gia tăng lên hạn chế khả năng mở rộng cho vay; tín phiếu bắt buộc từ ngân hàng T.Ư yêu cầu tổ chức tín dụng phải mua để hạn chế việc cho vay ra, chưa kể ở công cụ vi mô trong quản trị chất lượng tín dụng là hệ số quy đổi rủi ro đối với tài sản có là dư nợ cho vay ngành rủi ro cao hoàn toàn thay thế cho kiểm soát room tín dụng.

Những ngân hàng nào có lợi thế cạnh tranh gì khi bỏ room tín dụng, thưa ông?
- Trong ngành ngân hàng có thể chia thành 3 nhóm bao gồm nhóm ngân hàng quốc doanh; nhóm ngân hàng cổ phần quy mô lớn; và nhóm ngân hàng quy mô nhỏ. Dù cùng hoạt động cho vay, mỗi nhóm ngân hàng có phân khúc khách hàng riêng.
Các ngân hàng có hệ số an toàn vốn (CAR) cao sẽ ở vị trí thuận lợi nhất khi NHNN từng bước chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn không còn áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng.

Dù vậy, trong giai đoạn giao thời như hiện tại, điều kiện địa lý, điều kiện DN cũng thay đổi. Điều này làm cho mức tín nhiệm của các DN cũng khác và giúp cho các ngân hàng tìm ra được một nhóm DN mới.
Nếu cơ chế room được dỡ bỏ, các ngân hàng sẽ được phép cạnh tranh tự do. Đây là “miếng bánh hoàn toàn mới” mà ngân hàng nhỏ có thể tận dụng để bứt phá, đặc biệt ở những phân khúc chưa có nhiều cạnh tranh.
Với những quy định và sửa đổi này, thị trường ngân hàng đang có một sân chơi bình đẳng và công bằng hơn, không còn tạo ra đặc quyền, đặc lợi như trước đây. Hy vọng điều này sẽ giúp ngành ngân hàng phát triển cạnh tranh hơn

Một trong những mối lo lớn nhất khi bỏ room tín dụng là rủi ro tăng trưởng tín dụng nóng - kịch bản đã xảy ra trong giai đoạn 2011 - 2013. Và đặc biệt, nếu không có biện pháp kiểm soát tốt, dòng vốn có thể chảy lệch hướng vào các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán hay thậm chí các “sân sau” của ngân hàng?
- Giai đoạn hiện nay, các ngân hàng không thể tăng trưởng tín dụng tới mức như giai đoạn trước tới 100% nữa. Có một số hạn chế là tiền không còn dễ dàng như ngày xưa nữa, và qua tất cả các biện pháp của cơ quan quản lý NHNN hoạt động tín dụng của các ngân hàng đã được kiểm soát chặt chẽ, do đó không cần phải có room tín dụng các ngân hàng cũng đang được kiểm soát chặt chẽ cùng với lạm phát được kiểm soát hiệu quả.
Về phía NHNN, bỏ room tín dụng, thay vào đó NHNN chuẩn bị sẵn một bộ giải pháp để khi bỏ room, những quy định này sẽ là ràng buộc về hoạt động của ngân hàng theo cơ chế thị trường và quản trị an toàn hệ thống.

Hiện nay có nhiều công cụ thị trường đủ mạnh để thay thế: NHNN đã nâng chuẩn từ Thông tư 41/2016 lên Thông tư 44 với lộ trình 5 năm tiệm cận Basel III, đồng thời sửa đổi các quy định về quản trị nội bộ và chấm điểm tín dụng. Kể cả việc thu giữ tài sản cũng cho các ngân hàng linh hoạt hơn.
Các ngân hàng hiện nay đang tiến tới Basel III. Khi các ngân hàng đáp ứng được các chuẩn Basel III thì được tăng room tín dụng mà không cần hạn mức cấp từ NHNN. Trường hợp ngân hàng nào chưa đáp ứng được các tiêu chí này thì buộc NHNN phải kiểm soát và cấp room tăng trưởng tín dụng.
Hoặc quy định về hệ số an toàn vốn (CAR): khi ngân hàng muốn mở rộng tín dụng vào lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, họ buộc phải tăng vốn tự có để đảm bảo hệ số CAR - một rào cản thị trường rõ ràng, minh bạch và có hiệu lực pháp lý.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: NHNN có thể điều chỉnh công cụ này để điều tiết cung tiền gián tiếp - ví dụ, tăng dự trữ bắt buộc lên 5% hoặc 10% sẽ buộc các ngân hàng “giam” bớt tiền ở NHNN, giảm khả năng cho vay quá mức.
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO): qua phát hành tín phiếu hoặc giấy tờ có giá, NHNN có thể “hút tiền” hoặc “bơm tiền” vào hệ thống, linh hoạt và không cần dùng mệnh lệnh hành chính…

Những công cụ này vừa thị trường, vừa minh bạch và phản ánh thực lực tài chính - điều mà hạn mức tín dụng không thể đảm bảo.
Về phía các ngân hàng, khi tín dụng được mở rộng, các ngân hàng sẽ phải nâng cao năng lực thẩm định, quản trị rủi ro để kiểm soát nợ xấu, các ngân hàng thương mại tự điều chỉnh quản trị tốt rủi ro danh mục tài sản có của mình. Trong tương lai, nếu bỏ trần tín dụng, điều quan trọng không nằm ở việc NHNN tự tính toán hay phân bổ như trước, mà là xây dựng một cơ chế minh bạch và kỷ luật nghiêm khắc. Chỉ cần ngân hàng vi phạm có thể bị đưa vào diện cảnh báo sớm.
Việc tiến tới bỏ room tín dụng có dẫn tới bong bóng bất động sản không, thưa ông?
- Việc tiến tới bỏ “room” tín dụng sẽ khó dẫn tới bong bóng bất động sản như lo lắng của nhiều người. Sau nhiều chu kỳ biến động, hành lang pháp lý hiện đã hoàn thiện hơn, sự minh bạch của thị trường đã được nâng cao, các nhà đầu tư bất động sản cũng cẩn trọng hơn khi xuống tiền... Vì vậy, rất khó để xảy ra bong bóng hay khủng hoảng từ việc xóa bỏ phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.
Các ngân hàng cũng sẽ chủ động rà soát các yêu cầu, điều kiện cho vay theo hướng ưu tiên tính an toàn. Các ngân hàng hiện nay đang có xu hướng thẩm định tín dụng kỹ lưỡng hơn. Dòng vốn sẽ chỉ được rót vào những dự án có tiềm năng thương mại rõ ràng và khả năng thanh toán tốt. Khi cấp vốn cho bất động sản, các ngân hàng đều áp dụng các điều kiện chặt chẽ về đầu ra, cơ cấu thanh toán và cam kết tài chính, nhằm bảo đảm dòng tiền có thể đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng. Đồng thời, phía các cơ quan quản lý cũng có cơ chế giám sát chặt chẽ. Điều này sẽ đảm bảo việc cho vay của ngân hàng là đúng và đủ, tránh việc gián tiếp tạo ra bong bóng trên thị trường bất động sản.

Có ý kiến cho rằng, nếu bỏ room tín dụng, khách hàng cũng được lợi vì các ngân hàng sẽ cạnh tranh với nhau để cho vay được. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, như thế vô hình trung các DN nhỏ và vừa, DN yếu thế sẽ bị thiệt do ngân hàng lo nợ xấu, lo an toàn, họ sẽ tìm những khách hàng lớn, khách hàng tốt. Và DN nhỏ đã khó càng khó hơn. Quan điểm của ông thế nào?
- Đúng là như vậy, khi bỏ room, Thủ tướng yêu cầu, NHNN xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí cho các tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả, lành mạnh, có khả năng quản trị, điều hành tốt, tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và chỉ số chất lượng tín dụng an toàn cao…
Do vậy, khi mà mở cửa cạnh tranh cho các ngân hàng, họ sẽ nhắm vào khách hàng có sức khỏe tài chính ổn định, tiềm năng. Có thể họ sẽ xem nhẹ khách hàng hạn chế về tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng thường lựa chọn kỹ lưỡng đối tác để hợp tác, thay vì cấp vốn ồ ạt cho các DN đang gặp khó khăn hoặc tiềm ẩn nguy cơ mất thanh khoản.

Do đó, bên cạnh việc bỏ room tín dụng, cơ quan chức năng cần xây dựng chương trình hỗ trợ cho các DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp… Đơn cử như sự liên kết chặt chẽ giữa hệp hội DN, các hiệp hội ngành nghề với các ngân hàng, qua đó, giúp kết nối và tạo dựng niềm tin, giúp nhóm DN này dễ tiếp cận nguồn vốn hơn.
Ngoài ra, rà soát xây dựng, bổ sung ngay các cơ chế, chính sách ưu tiên để triển khai hiệu quả; có những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn đối với các DN nhỏ, siêu nhỏ, DN cỡ vừa, cũng như các hộ kinh doanh cá thể, cơ sở kinh tế phi chính thức…
Khi bỏ room tín dụng, các ngân hàng thương mại có đua nhau huy động vốn để cho vay hay không, và như vậy có ảnh hưởng đến yêu cầu của Chính phủ, NHNN hiện nay là giữ ổn định lãi suất, hoặc giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng?
- Tôi cho rằng, lãi suất cho vay sẽ giảm vì trong cuộc cạnh tranh bình đẳng, DN có khả năng đi vay họ sẽ tìm đến ngân hàng có lãi suất thấp hơn. Từ đó có thể kéo giảm mặt bằng lãi suất cho vay xuống.
Nhưng lãi suất huy động có thể sẽ tăng, dù NHNN đã quy định trần lãi suất điều hành (lãi suất từ 6 tháng trở xuống). Một trong những biện pháp mà các tổ chức quốc tế khuyến nghị NHNN phải rất chủ động trong điều hành lãi suất.
Xin cảm ơn ông!
