
Thời gian qua, Chính phủ đã có những cố gắng rất lớn trong việc hỗ trợ DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa (DNNVV) trong lĩnh vực xuất khẩu. Trao đổi với Kinh tế & Đô thị, TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, Chính phủ cần thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng quốc gia để hỗ trợ DN mạnh mẽ hơn nữa nhằm tận dụng tối đa cơ hội các hiệp định thương mại tự do (FTA), từ đó thúc đẩy tăng trưởng ngoại thương.

Ông đánh giá như thế nào về những kết quả mà các FTA đã mang lại cho xuất khẩu cũng như nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua?
- Với 16 FTA mà Việt Nam đã ký kết và thực thi với nhiều quốc gia đã thể hiện rõ 2 điều. Thứ nhất, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với thế giới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Thứ hai, chứng tỏ khả năng xuất khẩu vượt trội của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm 2024, xuất khẩu vượt 405 tỷ USD, thặng dư thương mại gần 25 tỷ USD; 7 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu đạt 261,8 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2024.
Có thể khẳng định những FTA đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ mở rộng quan hệ quốc tế, mà còn tăng cường kim ngạch xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, khi Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại chắc chắn cũng gia tăng rủi ro. Rõ ràng nhất là thị trường Mỹ, rủi ro của quan hệ ngoại thương với Mỹ là hiện hữu khi nước này đang áp dụng những chính sách thuế quan cực đoan với nhiều quốc gia, trong đó có cả Việt Nam.
Tạm thời, Mỹ sẽ áp đặt thuế quan 20% cho hàng hóa Việt Nam và 40% cho những hàng hóa trung chuyển từ quốc gia khác. Vì vậy, việc Việt Nam mở rộng quan hệ qua những FTA tuy có nhiều thuận lợi nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro cho nền kinh tế.

Liệu chính sách thương mại mới của Mỹ (áp thuế quan, hạn ngạch, quy định phi thuế quan) có làm suy giảm hiệu quả của các FTA mà Việt Nam đang thực thi không, thưa ông?
- Tôi nghĩ là có. Nếu Mỹ áp dụng mức thuế quan 20% cho hàng Việt Nam, và 40% cho hàng trung chuyển, điều này sẽ ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, vì thế, khi Mỹ áp một mức thuế quan cao như vậy, hàng xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ đương nhiên sẽ bị ảnh hưởng và sẽ tác động đến tình hình ngoại thương chung của Việt Nam.
Với các FTA, tôi nghĩ Việt Nam sẽ phải triển khai mạnh mẽ hơn với những FTA đang thực thi. Nếu Mỹ áp dụng thuế quan như đã thông báo, Việt Nam phải tìm những thị trường khác có nhiều lợi thế để bù trừ cho phần chịu tác động tiêu cực bởi chính sách thuế quan của Mỹ. Tuy nhiên, những FTA này cũng cần phải được xem xét ở nhiều khía cạnh.
Đặc biệt, các cố vấn của Nhà Trắng đã cáo buộc Việt Nam ở nhiều mặt, trong đó có gian lận thương mại, trợ giá và chính sách bán phá giá. Đây cũng là điều mà các nước khác đang để ý tới Việt Nam. Với tất cả những FTA, nhất là với châu Âu (EU) - những nước liên minh với Mỹ cũng cảnh giác. Do đó, Việt Nam phải quan tâm hơn đến vấn đề ngoại thương với các FTA để tránh những cáo buộc về bán phá giá, trợ giá hay gian lận thương mại nhằm thực thi những hiệp định đó một cách tích cực hơn.


Theo thông tin từ Bộ Công Thương, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các FTA chưa đạt như kỳ vọng, số lượng DN trong nước xuất khẩu sang các thị trường FTA vẫn khiêm tốn, thậm chí “lép vế” hơn DN FDI. Ông nhận định như thế nào về thực trạng này?
- Đây là một thực trạng mà chúng ta đã biết từ lâu, trong lĩnh vực ngoại thương và xuất khẩu, các công ty FDI chiếm một tỷ trọng rất lớn. Theo tính toán, tỷ lệ này lên tới 70%, trong khi các công ty nội địa chỉ chiếm 30%. Rõ ràng là DN nội bị “lép vế” so với DN FDI trong ngoại thương. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng sản phẩm quốc nội của Việt Nam chưa thể sánh kịp với sản phẩm của các công ty FDI. Những công ty này có vốn dồi dào từ các nhà đầu tư nước ngoài; công nghệ và cách quản trị của họ cũng tiên tiến, vì thế mà họ chiếm được lợi thế cạnh tranh khi cùng với các công ty nội địa của Việt Nam bán hàng ra nước ngoài.
Hiện trạng này cần được điều chỉnh. Trước hết, các công ty nội địa của Việt Nam cần phải tăng cường chất lượng sản phẩm, bao gồm cả bao bì. Đồng thời, những sản phẩm do các công ty nội địa sản xuất phải tuyệt đối tuân thủ quy định của các FTA, đặc biệt là các vấn đề về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, lao động... Tôi nói đơn cử như việc đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam, nhiều khi, ngư dân chưa nắm rõ và chưa tuân thủ những quy định này. Ví dụ, chi tiết về lưới đánh bắt cá ngoài khơi không được mang tính tận diệt.

Thực tiễn triển khai các FTA cho thấy, nhiều DN chưa tận dụng mức độ ưu đãi thuế, thông qua việc áp dụng các quy tắc xuất xứ và giấy chứng nhận xuất xứ. Theo ông, đâu là nguyên nhân?
- Đúng là các công ty nội địa của Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết những lợi thế về thuế trong nước, cũng như thuế tại các quốc gia xuất khẩu. Có thể một phần là do DN chưa nắm bắt được những quy định về pháp luật thuế quan ở các nước đó, và vì thế DN chưa tận dụng hết những lợi thế về mặt pháp lý.
Một vấn đề khác gây trở ngại, thậm chí là thiệt hại cho DN đó là những thông tin về xuất xứ và thành phần sản phẩm của hàng hóa xuất khẩu. Chẳng hạn, tại thị trường Mỹ, nếu DN không chú ý cung cấp đủ thông tin chính xác về các cấu phần của các thành phẩm, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm và dược phẩm sẽ không được cấp phép nhập khẩu. Hoặc nếu xuất xứ hàng hóa của Việt Nam có vấn đề sẽ gây trở ngại cho ngoại thương, nhất là trong bối cảnh Mỹ thắt chặt chính sách thương mại.

Một hạn chế nữa không thể không nhắc tới đó là các DN chưa tiếp cận hiệu quả kênh hỗ trợ trong nước để tận dụng cơ hội từ FTA. Theo ông, Chính phủ có nên thay đổi về cách thức hỗ trợ DN không?
- Thời gian qua, Chính phủ đã có những cố gắng rất lớn trong việc hỗ trợ các DN, đặc biệt là các DNVVN trong lĩnh vực ngoại thương. Tuy nhiên, theo tôi, những chính sách hỗ trợ đó tập trung phần lớn về vấn đề thông tin, hướng dẫn hơn là về vấn đề tài chính. Trong khi đó, các DNNVV rất cần vốn. Do đó, tôi đề nghị Ngân hàng Nhà nước nên xây dựng một tổ hợp tín dụng của nhiều ngân hàng với một số tiền lớn để hỗ trợ các DN xuất khẩu.
Hiện nay, Việt Nam đã có Quỹ Bảo lãnh tín dụng do UBND cấp tỉnh thành lập, song những quỹ này ngân sách nhỏ, hoạt động èo uột. Tôi cho rằng, Chính phủ cần thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng quốc gia. Quỹ này nên có vốn điều lệ lớn, phạm vi hoạt động trên toàn quốc, để hỗ trợ mạnh mẽ hơn các DNNVV, trong đó có DN xuất khẩu, qua đó thúc đẩy ngoại thương.

Giữ vững đà tăng trưởng xuất khẩu là một trong những nhiệm vụ hàng đầu để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trở lên trong năm 2025. Vậy, ông có khuyến nghị gì dành cho Chính phủ và DN để tận dụng hiệu quả các FTA, thúc đẩy xuất khẩu?
- Chúng ta biết rằng vấn đề thuế quan của Mỹ năm nay sẽ tác động mạnh mẽ đến xuất khẩu của Việt Nam. Mỹ là thị trường có tỷ trọng rất lớn, là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, song thị trường này sẽ bị thu hẹp lại vì vấn đề thuế quan (chính sách thương mại mới của Mỹ).
Vì thế, việc đầu tiên Việt Nam cần làm là phát triển những thị trường khác để thay thế cho thị trường Mỹ, trong đó có thị trường EU. Bên cạnh đó, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa việc mở rộng, khai thác những thị trường thuộc khu vực châu Á (Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản...); thị trường ASEAN (Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Singapore...).

Điều tôi muốn nhấn mạnh là Việt Nam cần ưu tiên tìm những thị trường có thể bù đắp lại nếu thị trường Mỹ thu hẹp. Một mặt, Chính phủ, các bộ, ngành cần có những biện pháp để hướng dẫn DN xuất khẩu, nhất là DNNVV nắm bắt, tuân thủ tất cả những quy định của các FTA. Những chương trình hướng dẫn cần được triển khai sâu rộng, thực chất, hiệu quả thông qua các bộ, ngành, qua VCCI, các Hiệp hội ngành hàng và tới từng DN xuất khẩu.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
