Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 12/1 đã công bố một tài liệu chi tiết nhằm chống lại các yêu sách "trái pháp luật" của Bắc Kinh ở Biển Đông, bao gồm về cơ sở địa lý và lịch sử.
Cụ thể, trong một tài liệu nghiên cứu dài 47 trang, Cục Đại dương, Môi trường quốc tế và Khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết, Trung Quốc không có cơ sở theo luật pháp quốc tế đối với những tuyên bố ở Biển Đông – mà Bắc Kinh dựa vào đó để thực hiện hành vi tranh chấp với Philippines, Việt Nam cũng như các quốc gia Đông Nam Á khác.
"Ảnh hưởng của những yêu sách hàng hải này là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp hoặc có một số hình thức độc quyền tài phán đối với hầu hết khu vực Biển Đông", theo tài liệu.
Mỹ đồng thời khẳng định “những tuyên bố này làm suy yếu nghiêm trọng pháp quyền trên các đại dương và nhiều quy định được công nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế được phản ánhtrong Công ước về Luật biển của Liên Hợp quốc 1982(UNCLOS).”
Tài liệu là bản cập nhật của một nghiên cứu năm 2014 về tranhchấp liên quan đến cái gọi là “Đường Chín Đoạn” tạo cơ sở cho phần lớn lập trường của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Kể từ năm 2014, Trung Quốc tiếp tục khẳng định các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, trong đó gồm những gì Trung Quốc gọi là “vùng nội thủy” và “các quần đảo xa”, tất cả đều không phù hợp với luật pháp quốc tế như được phản ánh trong UNCLOS.
Vào năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đã bác bỏ yêu sách “Đường Chín Đoạn” của Trung Quốc ở Biển Đông trong vụ kiện do Philippines khởi xướng. Bắc Kinh đáp lại bằng cáchđưa ra những lý lẽ mới, bao gồm khẳng định Trung Quốc có"quyền lịch sử" đối với khu vực này. Tài liệu mới của Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng những tuyên bố trên của Bắc Kinh là "khôngcó cơ sở pháp lý" và không đưa ra chi tiết cụ thể.
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, yêu sách hàng hải bành trướng củaTrung Quốc ở Biển Đông không phù hợp với luật pháp quốc tếnhư được phản ánh trong UNCLOS. Trung Quốc khẳng địnhbốn loại yêu sách hàng hải ở Biển Đông, gồm:
(1) Tuyên bố chủ quyền đối với các thực thể địa lý hàng hải: Bắc Kinh tuyên bố “chủ quyền” đối với hơn hơn một trăm thựcthể địa lý ở Biển Đông bị nhấn chìm dưới mực nước biển khithủy triều lên và nằm ngoài giới hạn hợp pháp của lãnh hải củabất kỳ Quốc gia nào. Những tuyên bố như vậy không phù hợpvới luật pháp quốc tế, theo đó các đặc điểm đó không phải là đốitượng của yêu sách chủ quyền hợp pháp hoặc có khả năng tạo ra các vùng biển như lãnh hải.
(2) Đường ranh giới: Trung Quốc đã vẽ hoặc khẳng địnhquyền vẽ “đường cơ sở thẳng” bao quanh các đảo, vùng nước vàcác đối tượng nhận chìm trong khu vực đại dương rộng lớn ở Biển Đông. Không một quần đảo nào trong số bốn “nhóm đảo” mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, và Nam Sa) đáp ứng các tiêu chí địa lý để sử dụngđường cơ sở thẳng theo UNCLOS. Ngoài ra, không có cơ quanluật pháp quốc tế riêng biệt nào ủng hộ quan điểm của Trung Quốc rằng nó có thể bao bọc toàn bộ các nhóm đảo trong cácđường cơ sở thẳng.
(3) Vùng hàng hải: Trung Quốc khẳng định các tuyên bố chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dựa trên việc coi tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông là một. Điều này không được luật pháp quốc tế cho phép. Phạm vi ra biển của các vùng biển phải được đo từ các đường cơ sở được thiết lập hợp pháp, thường là đường mực nước thấp dọctheo bờ biển. Trong các vùng biển có tuyên bố chủ quyền của mình, Trung Quốc cũng đưa ra nhiều tuyên bố về quyền tài phánkhông phù hợp với luật pháp quốc tế.
(4) Quyền lịch sử: Trung Quốc khẳng định rằng họ có “quyền lịch sử” ở Biển Đông. Tuyên bố này không có cơ sở pháp lý vàđược Trung Quốc khẳng định mà không có tính cụ thể về bảnchất hoặc phạm vi địa lý của “các quyền lịch sử” được tuyên bố.
Vì những lý do này, Mỹ và nhiều quốc gia khác đã bác bỏ nhữngtuyên bố này để ủng hộ trật tự hàng hải quốc tế dựa trên luật lệ ở Biển Đông và trên toàn thế giới.