“Năm nay tăng trưởng tín dụng khoảng 18 - 20%, sang năm để phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tín dụng vẫn duy trì ở mức cao. Nếu tăng trưởng tín dụng vượt 20% thì rất nóng” - TS Nguyễn Trí Hiếu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển thị trường Tài chính và Bất động sản Toàn Cầu - chuyên gia tài chính ngân hàng, chia sẻ quan điểm với PV Báo Kinh tế & Đô thị. Ông cho rằng, rất nhiều bài toán khó đang đặt ra với Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Tăng cung ứng vốn cho nền kinh tế, song phải kiểm soát được lạm phát, kiểm soát cho vay các lĩnh vực rủi ro; giảm lãi suất, song phải ghìm được tỷ giá…
Đến 27/11/2025, tín dụng nền kinh tế đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024. Ông nhận xét gì về mức tăng trưởng tín dụng trên?
- Đây là mức tăng trưởng rất mạnh. Đầu năm mục tiêu tăng trưởng tín dụng là 16% dựa trên tăng trưởng kinh tế GDP là 8%, trung bình hơn 2% tăng trưởng tín dụng sẽ giúp tăng trưởng 1% tăng trưởng GDP.
Tới nay, 11 tháng đã tăng tới 17%. Từ nay tới cuối năm có thể tăng tới 19 - 20%. Mức tăng trưởng này có những mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là đẩy một lượng tiền lớn vào trong lưu thông để hỗ trợ cho các DN, nhất là với DN nhỏ và vừa.
Mặt khác cũng hỗ trợ cho 3 lĩnh vực lớn của nền kinh tế là nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (XNK), một lượng tiền lớn vào lưu thông giúp cho XNK phát triển. Chúng ta biết rằng Việt Nam dựa rất nhiều vào XNK. Tổng kim ngạch XNK 2 chiều lên tới hơn 1,5 lần GDP.
Về mặt tiêu cực, đẩy một lượng tiền lớn vào lưu thông tạo ra rủi ro lạm phát. Tại thời điểm này chỉ số lạm phát ở dưới mức 4% ở 11 tháng đầu năm là tín hiệu đáng mừng nhưng liệu con số về thống kê như vậy đã phản ánh hết hay chưa.
Rủi ro thứ 2, khi lượng tiền lớn vào lưu thông nếu không kiểm soát chặt chẽ nó sẽ đẩy chủ yếu vào thị trường thứ cấp chứ không phải sơ cấp, tức là các thị trường chứng khoán, tài sản xã hội như thị trường vàng, BĐS gây bong bóng tài sản, truyền tay nhau mua đi bán lại, thay vì tiền đó được đổ vào sản xuất kinh doanh.
Riêng về ngành ngân hàng, nếu tín dụng đẩy mạnh, các ngân hàng cần vốn buộc phải tăng huy động. Hiện tăng trưởng huy động vốn đang thấp hơn tăng trưởng cho vay đâu đó từ 2 - 3% tạo ra vấn đề thanh khoản, đẩy lãi suất huy động tăng, từ đó có thể đẩy lãi suất cho vay lên. Và điều đó lại đi ngược với chúng ta mong muốn là các DN có thể vay với chi phí nhẹ.
Một số ý kiến cũng lo ngại về tín dụng chảy vào bất động sản (BĐS). Theo quan điểm của ông lúc này đã cần siết tín dụng vào lĩnh vực này không?
- Tôi nghĩ là cần. Dư nợ tín dụng bất động sản hiện đã vượt mốc 4 triệu tỷ đồng. Tỷ lệ cho vay BĐS đã lên tới 24% trên tổng dư nợ của cả hệ thống là mức rất cao (ở Mỹ họ cho vay BĐS đâu đó khoảng 10%). Nhiều thống kê cho thấy, tỷ trọng tín dụng chảy vào BĐS tiếp tục tăng mạnh, ở một số ngân hàng, tỷ lệ này thậm chí lên tới 30% tổng dư nợ và tới 58% dư nợ cho vay DN.
Tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng so với GDP lên tới 140% là tỷ lệ rất cao. WB hay IMF đã cảnh báo nhiều năm nay. Nếu lượng tiền đi vào tài sản thứ cấp như tôi nói ở trên, là rủi ro. Ngân hàng nếu có tài sản bảo đảm BĐS cầm cố là họ có thể cho vay ra và có thể đẩy giá các thị trường lên.
Vì khi cung cấp nguồn vốn đẩy thanh khoản tăng lên sẽ đẩy giá của các tài sản thị trường đó. Ngay cả BĐS giá hiện nay là không hợp lý với thu nhập của Việt Nam. Giá BĐS trên thu nhập bình quân đầu người mỗi năm ở Việt Nam lên tới 20 - 30 lần. Trong khi ở Mỹ, giá BĐS so với thu nhập bình quân đầu người mỗi năm ở mức chỉ 4 - 5 lần.
Chính sách tiền tệ cần điều chỉnh quyết liệt, bao gồm giảm tỷ trọng cho vay BĐS xuống dưới 20% để hạn chế rủi ro và ngăn chặn dòng vốn chảy vào hoạt động đầu cơ. Vừa rồi, NHNN chi nhánh TP Hồ Chí Minh có văn bản cảnh báo về tín dụng bất động sản.
Theo tôi, đây là động thái tích cực. Đó cũng là lời cảnh báo để các ngân hàng để các ngân hàng tự “soi lại mình” xem đối tượng cho vay đã phù hợp chưa, để quay về những lĩnh vực lành mạnh, không ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường.
Năm 2026, để phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng sẽ vẫn ở mức cao như năm nay. Có áp lực gì với chính sách tiền tệ cả về mặt trong nước và bên ngoài?
- Áp lực chính sách tiền tệ vẫn là kiểm soát lạm phát. Trong chính sách tiền tệ có 2 mục tiêu quan trọng là ổn định kinh tế và phát triển kinh tế. Ổn định kinh tế là kiểm soát lạm phát ổn định vĩ mô. Nếu phát triển mạnh mà đồng tiền mất giá, lạm phát cao thì chính sách tiền tệ không đạt mục tiêu mong muốn. Đây là thách thức rất lớn.
Thị trường vốn chưa đủ độ sâu, các dự báo cho thấy, tín dụng ngân hàng tiếp tục giữ vai trò điểm tựa của kinh tế năm 2026. Năm nay tăng trưởng tín dụng khoảng 18 - 20%, sang năm nếu mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn thì tăng trưởng tín dụng phải cao hơn nữa. Nếu tăng trưởng tín dụng vượt 20% thì rất nóng.
Với thách thức từ bên ngoài, tình hình kinh tế thế giới còn biến động mạnh hơn so với năm 2025, với chính sách thuế quan của Mỹ, vấn đề địa chính trị, tài chính và ngoại thương. Nền kinh tế Việt Nam sẽ phải chịu áp lực rất lớn.
Tăng cung ứng vốn cho nền kinh tế, song phải kiểm soát được lạm phát, kiểm soát cho vay các lĩnh vực rủi ro; giảm lãi suất, song phải “ghìm” được tỷ giá… Rất nhiều bài toán khó đang đặt ra với NHNN.
Lãi suất huy động đang tăng, liệu có khả năng NHNN sẽ tăng lãi suất điều hành sau cuộc họp tới đây của Cục Dự trữ liên bang Mỹ - Fed hay không?
- Chúng ta biết rằng, lãi suất liên ngân hàng qua đêm của Việt Nam có thời điểm đã lên 7% - cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Trong khi lãi suất qua đêm ở Mỹ chỉ tới 4%. Lãi suất của Việt Nam cao hơn Mỹ cũng làm giảm áp lực tỷ giá. Nếu Fed giảm lãi suất USD 0,25 điểm phần trăm vào tháng 12, thì đây sẽ là điều kiện tích cực. Nếu áp lực tỷ giá giảm bớt giúp giải phóng NHNN khỏi nhu cầu tăng lãi suất điều hành để ứng phó với biến động ngoại tệ.
Tuy nhiên, vấn đề của Việt Nam không hẳn chỉ là chênh lệch về lãi suất giữa tiền đồng và đô la Mỹ. Nhu cầu của ngoại tệ Việt Nam rất lớn, dự trữ quốc gia của Việt Nam, NHNN chưa bao giờ công bố, nhưng theo các tổ chức quốc tế đâu đó khoảng 80 tỷ USD.
Trong khi bình quân 3 tháng nhập khẩu của Việt Nam là 110 tỷ USD, tức là dự trữ quốc gia của Việt Nam không quá dồi dào. Bây giờ nếu phải dùng ngoại tệ mua vàng (theo Nghị định 232/2025/NĐ-CP là mở cửa thị trường vàng), rồi nhập khẩu nhiều vào những tháng cuối năm… do đó thời điểm này áp lực tỷ giá vẫn rất lớn.
Giới tài chính vẫn đang thảo luận nhiều về hai động thái mới của NHNN. Một là việc hoán đổi đô la với tiền đồng kỳ hạn 14 ngày cho các ngân hàng thương mại; hai là tăng lãi suất trên thị trường mở (OMO).
Trong giai đoạn qua, tín dụng tăng nhanh hơn huy động, các ngân hàng buộc phải tìm đến nguồn vay trên thị trường liên ngân hàng để bù đắp thiếu hụt. Trên thị trường mở, lượng OMO mà NHNN bơm ra để hỗ trợ thanh khoản cũng leo lên mức kỷ lục, gần chạm 370.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 50% tổng lượng trái phiếu đủ điều kiện cầm cố.
Dù vậy, thanh khoản hệ thống tiếp tục chịu áp lực, dù NHNN tiếp tục “bơm ròng”. Nếu NHNN tăng thêm lãi suất trên thị trường 2 (thị trường mở - OMO) cuối cùng cũng sẽ tác động tới thị trường 1 (lãi suất dân cư).
Trong bối cảnh đó, NHNN mở một "kho thanh khoản mới" - nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, để bơm VND. Ngày 9/12, NHNN đã triển khai nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (swap USD/VND) với các ngân hàng thương mại, kỳ hạn 14 ngày, hạn mức tối đa 500 triệu USD, với tỷ giá 23.948 - 23.958 VND/USD.
Trước đó, NHNN đã có một đợt hoán đổi ngoại tệ tương tự vào ngày 5/12. Hoán đổi nói trên có thể được hiểu đơn giản là NHNN cung cấp thanh khoản tiền đồng cho các ngân hàng (dùng đô la làm tài sản bảo đảm) với “chi phí lãi 10 đồng” cho 14 ngày. Với lãi suất vay USD kỳ hạn 2 tuần trên thị trường liên ngân hàng hiện khoảng 4%/năm, cộng chênh lệch tỷ giá hoán đổi, mức chênh lệch này tương đương việc NHNN đang cho các ngân hàng vay VND với lãi suất khoảng 5%/năm.
Nếu công cụ này vận hành trơn tru, nhà điều hành có thể mở rộng khối lượng hoặc lặp lại các phiên hoán đổi tương tự trong thời gian tới.
Dù vậy, tôi vẫn nhấn mạnh rằng, NHNN đứng trước khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ. Một mặt phải bơm một lượng tiền lớn vào trong lưu thông, mặt khác đứng trước nguy cơ lạm phát.
Khi các ngân hàng đã tăng trưởng khá cao (nhiều ngân hàng tăng trưởng 2 con số) đang trông chờ cơ quan quản lý sẽ xem xét nới “room” tín dụng. Ông nghĩ sao về về lộ trình bỏ room tín dụng?
- Có 2 khái niệm là trần tín dụng và room tín dụng. Trần tín dụng cho cả hệ thống (chẳng hạn năm nay 16%, sang năm 18 hay 20%) tôi cho rằng NHNN vẫn giữ trần tín dụng này. Nhưng dưới trần tín dụng đó là room tín dụng (hạn mức tín dụng) cho từng ngân hàng thì nên bỏ, NHNN có nhiều công cụ khác như tỷ lệ dư nợ/huy động 85% để điều hành, tỷ lệ CAR (hệ số an toàn vốn), thực hiện nghiêm ngặt tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn 30%...
Tất cả những công cụ trên NHNN có thể dùng triệt để, để bỏ room tín dụng (cho các ngân hàng linh hoạt tuỳ theo khả năng hoạt động của họ), nhưng vẫn kiểm soát các ngân hàng nếu tăng trưởng nóng. NHNN vẫn phải theo dõi chặt chẽ cũng có thể các ngân hàng lợi dụng room tín dụng để tăng trưởng nóng, tạo lợi nhuận gây rủi ro hệ thống.
Xin cảm ơn ông!






