
Trao đổi với Kinh tế & Đô thị, Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội Đỗ Văn Bằng cho rằng, để giảm thiểu nguy cơ mất an toàn giao thông do xe kinh doanh vận tải (KDVT), cần hoàn thiện thể chế, siết chặt quản lý đối với DN. Cùng với đó là tuyên truyền, nâng cao nhận thức, đạo đức nghề nghiệp của người lái xe.
Thời gian qua, liên tiếp nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra có liên quan đến xe KDVT, đặc biệt là xe khách. Ông lý giải như thế nào về hiện tượng này?
- Cần nhìn nhận một cách thực sự khách quan là tai nạn giao thông liên quan đến xe KDVT đã giảm mạnh một cách rõ rệt so với trước đây. Theo số liệu chúng tôi có được, 10 năm qua số lượng xe KDVT đã tăng hơn 3 lần, nhưng tai nạn giao thông liên quan loại hình này lại giảm 50%. Đó là con số rất ấn tượng cho thấy cơ quan quản lý Nhà nước, lực lượng chức năng ngành giao thông vận tải (GTVT), và cả các DN đã nỗ lực rất lớn để bảo đảm an toàn giao thông cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ hành khách.

Tuy nhiên, như đã thấy vẫn còn không ít tai nạn giao thông liên quan đến xe KDVT. Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này gồm: hạ tầng chưa đồng bộ, chưa phát triển tương xứng với nhu cầu giao thông; chính sách, cơ chế trong lĩnh vực vận tải đường bộ chưa toàn diện, chưa coi đây là ngành đặc thù nên vẫn còn những lỗ hổng trong quản lý DN.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức, nhận thức cho người lái xe, ngăn ngừa nguy cơ tiềm ẩn thông qua bộ phận giám sát ATGT tại các DN chưa được quan tâm đúng mức, đồng đều. Thực tế phần lớn các vụ tai nạn giao thông liên quan đến xe KDVT đều có nguyên nhân do lỗi chủ quan của người lái xe.

Vì sao chính sách trong lĩnh vực vận tải chưa toàn diện, và bộ phận giám sát an toàn giao thông tại nhiều DN chưa đạt hiệu quả như mong muốn, thưa ông?
- Theo quy định của pháp luật, một DN vận tải có từ 5 xe trở lên phải thành lập bộ phận giám sát ATGT. Nhưng thực tế là các DN hoặc hộ cá thể có dưới 5 xe không thành lập bộ phận này; hoặc một số DN đủ điều kiện thành lập nhưng hầu như không vận hành đúng nghĩa. Chức năng của bộ phận giám sát ATGT là theo dõi giám sát hành trình, camera trên xe đưa ra cảnh báo khi lái xe chạy quá tốc độ, lái xe quá số giờ hoặc vi phạm giao thông, nhằm ngăn ngừa sớm nguy cơ mất ATGT. Bộ phận này hoạt động không hiệu quả chính là một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến mất trật tự, an toàn giao thông của xe KDVT.
Thực tế đó còn cho thấy một bất cập rất lớn khác trong chính sách quản lý vận tải đường bộ. Theo các quy định của hiến pháp và pháp luật hiện nay, hộ cá thể với 1 chiếc xe cũng có thể KDVT hành khách tuyến cố định; DN có dưới 5 xe không phải thành lập bộ phận giám sát an toàn giao thông. Mà không có bộ phận này thì không có công cụ để DN giám sát, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Mặt khác, mô hình Hợp tác xã (HTX) vẫn tồn tại với các xã viên góp vốn rồi tự vận hành phương tiện, HTX chỉ đại diện lo các khâu thủ tục giấy tờ, công tác quản lý còn lỏng lẻo. Chính vì vậy, công tác quản lý và giám sát ATGT trong nhóm này gần như bị bỏ ngỏ hoặc quan tâm không đúng mức… Qua đó có thể thấy chúng ta còn rất nhiều việc phải làm trong công tác quản lý vận tải đường bộ.

Vậy thưa ông, phải làm gì để tăng cường hiệu quả quản lý vận tải đường bộ, giảm thiểu nguy cơ mất ATGT?
- Trước mắt, chúng ta cần tập trung vào ba việc chính. Thứ nhất là hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đối với vận tải đường bộ, nhất là vận tải hành khách. Xem xét không cấp phép cho các DN, hộ cá thể có ít phương tiện, không đủ điều kiện thành lập bộ phận giám sát ATGT, không đủ nhân lực, nguồn lực KDVT theo tuyến cố định. Mô hình HTX trong vận tải đã cho thấy không còn phù hợp với bối cảnh hiện đại, cần thay đổi phương thức quản lý và điều kiện hoạt động.
Thứ hai, cần là siết chặt quản lý DN, tăng cường xử lý trách nhiệm của DN nếu để xảy ra mất an toàn giao thông liên quan đến phương tiện của mình. Buộc các DN phải vận hành bộ phận giám sát an toàn giao thông một cách thực chất, hiệu quả, bởi trên thực tế, DN hoàn toàn có thể bảo đảm an toàn giao thông đối với xe KDVT nếu quản lý nghiêm túc, trách nhiệm.
Thứ ba là các DN phải chủ động lắp đặt đầy đủ camera giám sát, thiết bị định vị phát hiện sớm, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm của lái xe. Bên cạnh đó, lực lượng chức năng cũng cần tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm trên đường để kịp thời ngăn chặn những hành vi dẫn đến tai nạn giao thông. Đồng thời, DN phải tích cực hơn nữa trong tuyên truyền, giáo dục ý thức, đạo đức nghề nghiệp cho người lái xe. Đặc biệt là siết chặt đầu vào từ công tác đào tạo, kiểm tra sức khỏe, năng lực cũng như ý thức khi tuyển lái xe.

Có ý kiến cho rằng xe giường nằm là một trong những tác nhân gây ra nhiều vụ tai nạn giao thông và muốn cấm loại hình này. Ông nhận định như thế nào về vấn đề đó?
- Tôi cho rằng, đó là ý kiến chủ quan, phiến diện. Xe khách giường nằm đã có bề dày phục vụ hành khách hàng chục năm qua và ngày càng được ưa chuộng, cho thấy nó đáp ứng tốt nhu cầu của Nhân dân, hành khách. Tai nạn giao thông hầu hết do lỗi chủ quan từ con người chứ không phải do xe giường nằm hay ghế ngồi.
Nhiều năm qua, pháp luật đã cấm hoán cải xe ghế ngồi thành xe giường nằm. 100% số xe giường nằm hiện nay là nguyên bản từ khi đóng mới, bảo đảm đầy đủ các yếu tố, điều kiện kỹ thuật an toàn và được cơ quan Nhà nước cấp chứng nhận kiểm định. Dựa vào những nhận định sai sót mà muốn cấm xe giường nằm là thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như kiến thức về KDVT đường bộ.

Ông đánh giá như thế nào về KDVT hành khách đường bộ trong hiện tại và cả tương lai?
- Những năm trở lại đây, ngành KDVT đường bộ đã tự chuyển mình mạnh mẽ, đáp ứng rất tốt như cầu đi lại, giao thương của người dân. Đặc biệt trong những năm qua, dù gặp vô vàn khó khăn do đại dịch Covid-19, sự cạnh tranh khốc liệt của hàng không, xe ghép, xe tiện chuyến… nhưng các DN vẫn vượt khó để đầu tư nâng cao chất lượng phương tiện, giảm giá vé, giảm thiểu tình trạng nhồi nhét hành khách, bảo đảm phương tiện phục vụ Nhân dân trong các kỳ nghỉ lễ, Tết…
Hiện vận tải hành khách đường bộ chiếm 94,6% nhu cầu đi lại thực tế của người dân, khẳng định vai trò chủ lực trong hệ thống giao thông Việt Nam và cho thấy những nỗ lực rất đáng tôn vinh của DN.
Tuy nhiên sắp tới, khi đường sắt tốc độ cao được xây dựng và đưa vào vận hành, ngành KDVT hành khách đường bộ sẽ đối diện với rất nhiều khó khăn, đòi hỏi các DN phải chuyển mình để thích nghi và tìm hướng đi mới. Trước mắt, các DN cần tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm an toàn giao thông để phục vụ Nhân dân, hành khách ngày càng tốt hơn. Chính hành khách là những “nhà quản lý” thực tế và khắt khe nhất của KDVT đường bộ; chất lượng phải cao, giá thành phải thấp mới thuyết phục và giữ chân được hành khách.
Xin trân trọng cảm ơn ông!

