
Tăng trưởng tín dụng năm 2025 sẽ đạt khoảng 16 - 17%. Việt Nam cần thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và theo diễn biến của thị trường, kèm theo đó là cần có những công cụ dự báo tốt, mang tính kịp thời. PGS.TS Nguyễn Hữu Huân - Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh đã có cuộc trao đổi với PV Kinh tế & Đô thị xung quanh vấn đề này.

6 tháng đầu năm 2025, tín dụng toàn nền kinh tế đã tăng gần 10%, gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2024, là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2022. Điều này nói lên vấn đề gì, thưa ông?
- Tín dụng tăng trưởng mạnh cho thấy nhu cầu vốn đang tốt. Chính sách tiền tệ trong 6 tháng đầu năm đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thể hiện rất rõ qua 2 thông số là tăng trưởng kinh tế 6 tháng tăng 7,52%, tăng cao nhất trong gần 20 năm trở lại đây. Và lạm phát cũng được kiểm soát tốt, theo đúng mục tiêu, bình quân 6 tháng đầu năm 2025 là 3,27%.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp để định hướng thị trường, giảm lãi suất cho vay hỗ trợ DN và người dân. Riêng trong tháng 6/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các khoản vay phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng 6,3%/năm, giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2024.
Đối với điều hành tỷ giá được NHNN điều hành linh hoạt, phù hợp, góp phần hấp thu các cú sốc bên ngoài; đồng thời phối hợp với các công cụ chính sách tiền tệ khác để giảm bớt áp lực đối với tỷ giá và thị trường ngoại tệ.
Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng huy động vốn ngân hàng (+6,57%) chậm hơn đáng kể so với tăng trưởng tín dụng (+9,9%), do lãi suất huy động duy trì ở mức thấp. Tuy nhiên, thông qua thị trường mở (OMO), NHNN điều tiết lượng tiền trên thị trường qua việc bơm hút.
Việc điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt theo diễn biến của thị trường là một thành tựu của NHNN, điều này giúp cho chúng ta bảo đảm cung ứng đủ nguồn vốn cho nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, nhưng vẫn bảo đảm ổn định vĩ mô, đặc biệt là tỷ giá và lạm phát.

NHNN dự tính tăng trưởng tín dụng 16% có thể điều chỉnh theo tín hiệu thị trường. Tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương, Thủ tướng yêu cầu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8,3 - 8,5%. Ông nhận định về khả năng tăng trưởng tín dụng năm nay thế nào?
- Trước đây, để đạt được 1% tăng trưởng GDP, Việt Nam cần khoảng 3% tăng trưởng tín dụng, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống khoảng 2% trong năm 2024, phản ánh sự thay đổi trong hiệu suất sử dụng vốn tín dụng.
Nếu như năm ngoái, tôi hy vọng năm nay cũng tương tự, nếu GDP đâu đó khoảng 8,3 - 8,5%, tăng trưởng tín dụng sẽ khoảng 16 - 17%. Với điều kiện là vốn tín dụng phải chảy vào sản xuất, kinh doanh nhiều, còn nếu chảy vào BĐS hay các lĩnh vực rủi ro sẽ khó đạt được tỷ lệ 2 đồng vốn để tạo ra 1 đồng tăng trưởng, có thể sẽ phải ở tỷ lệ 3 đồng vốn, và như vậy nếu GDP tăng 8% thì tín dụng sẽ phải vọt lên hai mươi mấy %.
Tuy nhiên tôi thấy cơ cấu kinh tế hiện nay vẫn đang chảy vào sản xuất kinh doanh. Hy vọng rằng từ giờ tới cuối năm vẫn đạt được tỷ lệ đó.

Tỷ lệ tín dụng so với GDP đã tăng từ 80,2% năm 2011 lên 135,7% năm 2024; trong khi tỷ lệ này đối với Malaysia là 79,9%, Thái Lan là 72,2%, và Indonesia là 30,8%. Ông có khuyến nghị gì về chính sách tiền tệ?
- Điều lưu ý là dù lạm phát trong 6 tháng đầu năm vẫn được kiểm soát trong ngưỡng cho phép, nhưng bước vào nửa cuối năm, nhiều yếu tố bất định từ bên ngoài như tỷ giá, giá dầu và căng thẳng địa chính trị đang khiến triển vọng lạm phát trở nên khó lường.
Nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, song tín dụng cần tăng trưởng trong vòng kiểm soát, nếu không sẽ gây ra rủi ro cho hệ thống. Để đồng vốn tín dụng thúc đẩy kinh tế thì dòng tiền phải đi vào sản xuất, kinh doanh.
Việc thực thi chính sách tiền tệ nên theo diễn biến của thị trường và kinh tế thế giới, cần thực hiện bơm hút một cách linh hoạt để bảo đảm ổn định vĩ mô. Ngoài ra, cần có chiến lược dài hạn phát triển thị trường vốn nhằm tạo kênh tài trợ đối trọng với hệ thống ngân hàng. Khi thị trường vốn phát triển, sự phụ thuộc vào ngân hàng sẽ giảm.
Ngoài ra, Việt Nam cần chuyển dịch sang các mô hình tăng trưởng chất lượng hơn, mô hình tăng trưởng cần dựa nhiều hơn vào tăng năng suất, trên hiệu quả và đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ…

Ông nhận định thế nào về lãi suất, tỷ giá từ nay tới cuối năm?
- Việc tỷ giá tăng nóng trong những thời gian gần đây xuất phát từ hai nguyên nhân, thứ nhất là chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và Mỹ lớn và ảnh hưởng từ căng thẳng về thuế quan.
Việt Nam lại đang duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng với mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài. Điều này dẫn đến chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và Mỹ (bao gồm phần bù rủi ro tỷ giá) lớn. Thứ hai, yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tỷ giá trong thời gian tới là quyết định của Mỹ về mức áp thuế.
Từ nay tới cuối năm, áp lực về tỷ giá sẽ còn lớn. Trong khi đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm nay trên 8%, đây là một thách thức rất lớn bởi chúng ta phải bơm một lượng tiền đủ lớn để đạt được mục tiêu trên.

Tỷ giá cao, sẽ dẫn đến áp lực tăng lãi suất là có, nếu duy trì được độ ổn định tỷ giá thì sẽ ảnh hưởng đến bài toán tăng trưởng tín dụng. Năm nay, từ đầu năm Chính phủ cũng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng, ưu tiên tăng trưởng. Hiện nay, VND so với đồng USD chưa mất giá nhiều, các ngân hàng bán giá USD là 26.320 VND/USD, tương đương mất giá 2,9% so với đầu năm. Nhưng so với đồng EUR thì VND đã mất giá khá nhiều. Đó cũng cái mà mình phải quan tâm.
Về lãi suất, với việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ tốn thay vì nhanh và mạnh như kỳ vọng trước đó, dư địa giảm lãi suất ở Việt Nam sẽ bị thu hẹp. Theo đó, khả năng giảm mạnh lãi suất trong thời gian tới là không cao, nhưng lãi suất cũng khó tăng. Thực tế, Việt Nam đã duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng khá lâu, trong bối cảnh lãi suất nền thấp và lạm phát sẵn sàng ở mức 3,7 - 4,5%.

Bỏ hạn mức tín dụng (room), đây có phải là thời điểm hay không, và nếu điều hành theo cơ chế thị trường sẽ giúp các ngân hàng chủ động và tăng khả năng tiếp cận vốn cho DN. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
- Bỏ room tín dụng là xu thế đúng, nhưng phải đi kèm kỷ luật quản trị và giám sát đủ mạnh. Việc dỡ bỏ cơ chế room tín dụng không có nghĩa là NHNN hoàn toàn buông lỏng kiểm soát thị trường tín dụng. Nếu không, rủi ro quay lại thời tín dụng nóng là hoàn toàn có thể xảy ra.
Tôi cho rằng, cần có lộ trình. Để thay thế hiệu quả cơ chế room, bộ tiêu chí kiểm soát an toàn tín dụng mà NHNN xây dựng cần bảo đảm rõ ràng, minh bạch, bám sát thông lệ quốc tế nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với đặc thù và thực tiễn hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Những chỉ số then chốt như tỷ lệ an toàn vốn (CAR), chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu, mức độ trích lập dự phòng rủi ro và khả năng thanh khoản là các yếu tố không thể thiếu. Ngoài ra, cần xét đến năng lực quản trị điều hành và hệ thống kiểm soát nội bộ, khả năng nhận diện, đo lường và quản lý rủi ro tín dụng của từng tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, NHNN cũng nên tăng cường hệ thống cảnh báo sớm và giám sát chủ động bằng công nghệ (supervisory technology - SupTech), để phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống. Việc này vừa bảo đảm quyền tự chủ cho các ngân hàng có năng lực, vừa bảo vệ an toàn chung cho toàn hệ thống.
Bỏ room tín dụng là bước đi cần thiết để đưa hoạt động tín dụng về đúng bản chất thị trường, minh bạch hơn, bình đẳng hơn giữa các ngân hàng và DN. Tuy nhiên, nếu nói chính sách này sẽ giúp cải thiện rõ rệt khả năng tiếp cận vốn của các DN, đặc biệt là nhóm DN vừa và nhỏ hay DN sản xuất, thì tôi cho rằng kỳ vọng như vậy là hơi lạc quan. Muốn cải thiện thực sự khả năng tiếp cận vốn cho SME và DN sản xuất, cần nhiều giải pháp đồng bộ hơn như phát triển các quỹ bảo lãnh tín dụng, khuyến khích cho vay dựa trên dòng tiền, hỗ trợ minh bạch hóa thông tin DN, đa dạng hóa các kênh tài chính như thị trường vốn, fintech…
Nói một cách ngắn gọn, bỏ room tín dụng là điều kiện cần để xây dựng một thị trường tín dụng minh bạch, hiệu quả hơn, nhưng không phải là điều kiện đủ để giải quyết gốc rễ bài toán tiếp cận vốn của DN. Để thực sự tạo chuyển biến, cần thêm nhiều chính sách hỗ trợ mang tính nền tảng, đặc biệt hướng tới cộng đồng DN nhỏ và vừa.

Khi tín dụng tăng vấn đề cần quan tâm chính là rủi ro nợ xấu? Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, tổng quy mô nợ xấu toàn hệ thống hiện đã vượt 1 triệu tỷ đồng - tương đương một “khối vốn chết” khổng lồ bị mắc kẹt, gây lãng phí nghiêm trọng trong bối cảnh nền kinh tế đang khát vốn?
- Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó kế thừa điểm cốt yếu nhất của Nghị quyết 42/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đó là quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Ngoài ra, còn những điểm khác cũng được luật hóa trở lại, thay vì văn bản dưới luật, đó là tài sản bảo đảm không bị kê biên trong thi hành án (trừ trường hợp đặc biệt) và được hoàn trả tài sản là tang vật trong các vụ án hình sự.

Việc cho phép các ngân hàng thương mại được quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt, đối với các khoản nợ đã chuyển sang nhóm 5 là hoàn toàn hợp lý. Việc này không những giúp rút ngắn thời gian xử lý, giảm chi phí, mà còn góp phần hạn chế tỷ lệ nợ xấu và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tín dụng.
Nếu xử lý nợ xấu đồng bộ và hiệu quả, giải phóng nguồn vốn bị “kẹt” trong nợ và tài sản bảo đảm, giúp ổn định lãi suất, mở rộng tín dụng và hỗ trợ phục hồi tài chính DN trong bối cảnh kinh tế còn nhiều thách thức.
Xin cảm ơn ông!
