Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Ngân vang chiêng Ba!

Đỗ Quyên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi- Tưởng như chỉ dành riêng cho nam giới nhưng nhiều phụ nữ H’re ở huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) lại say mê và sử dụng thành thạo chiêng Ba. Dưới bàn tay họ, tiếng chiêng vẫn vang lên trầm hùng giữa mênh mông rừng núi, tựa như âm thanh từ ngàn xưa vọng về.

Phụ nữ túc chinh

Bước vào tuổi 82 tuổi, sức yếu, bà Phạm Thị Sỹ (xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) đã nghỉ hẳn chuyện nương rẫy. Phần lớn thời gian bà Sỹ chỉ ở nhà, quẩn quanh trên căn nhà sàn nhỏ.

Bà Phạm Thị Sỹ đánh chiêng Ba cùng ông Phạm Văn Nhót và anh Phạm Văn Rôm.

Thấy khách đến nhà, rồi con trai bày biện bộ chiêng ra mà thiếu người chơi, bà Sỹ dùng tiếng H’re, nói với con trai là Phạm Văn Rôm đưa chiêng cho bà trong sự bất ngờ của nhiều người.

Dưới những nắm tay hằn đầy vết thời gian nhưng vung lên, hạ xuống đầy dứt khoát, tiếng chiêng Vông của bà Phạm Thị Sỹ hòa nhịp cùng tiếng chiêng Túc, chiêng Tum của Phạm Văn Rôm và người hàng xóm là Phạm Văn Nhót. Bộ chiêng Ba có đủ 3 người chơi phát ra những âm thanh trầm bổng, ngân vang giữa núi rừng.

Bà Phạm Thị Sỹ là một trong những phụ nữ hiếm hoi biết đánh chiêng.
Bà Phạm Thị Sỹ là một trong những phụ nữ hiếm hoi biết đánh chiêng.

“Đàn bà ở xóm này chỉ còn mỗi mẹ tôi là đánh được chiêng thôi, giờ không còn ai nữa. Họ già, chết hết rồi”- ông Rôm nói, giọng pha lẫn tự hào.

Chiêng Ba là nhạc cụ phổ biến nhất và mang tính đặc trưng tiêu biểu của của người H’re ở huyện Ba Tơ. Theo dân làng, gọi là chiêng Ba bởi lẽ bộ chiêng này có 3 chiếc. Ba chiếc chiêng (còn gọi là chinh) có kích cỡ không bằng nhau. Chiếc lớn có tên là chiêng Vông, chiếc nhỏ hơn là chiêng Tum, chiếc nhỏ nhất là chiêng Túc. Đánh chiêng thì gọi là túc chinh.

Khi trình diễn, chiêng Vông được để nghiêng, chiêng Tum để nằm, chiêng Túc treo trên dây. Chiêng Tum đóng vai trò giữ nhịp, chiêng Vông và chiêng Túc theo giai điệu. Chiêng Vông và chiêng Tum đánh bằng nắm tay trần, chiêng Túc đánh bằng nắm tay có quấn khăn để tiếng chiêng được ấm. Người đánh chiêng giỏi nhất sẽ đánh chiêng Túc, dẫn dàn chiêng diễn tấu theo đúng bài bản và nhịp điệu. Khi diễn tấu dàn chiêng 3 chiếc, người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.

Người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.
Người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.

Được đúc bằng đồng, các chiếc chiêng đều khá nặng, nên việc đánh chiêng thường do đàn ông đảm nhận. Thế nhưng, vì say mê thứ âm thanh huyền bí và gắn bó máu thịt với dân tộc mình, nhiều người phụ nữ H’re vẫn tìm tòi, học cách sử dụng.

“Ngay từ nhỏ đã thuộc lòng nhiều làn điệu ta lêu, ca choi của người H’re, cứ mỗi dịp lễ hội, đám cưới…, hòa cùng tiếng chiêng Ba và các nhạc cụ khác, dân làng lại cùng nhau ca múa. Chiêng Ba làm nhiều người say mê, cả người đánh lẫn người nghe. Khi đánh chiêng thấy lòng vui sướng, quên hết mệt nhọc, lo âu. Ông chồng lúc còn sống cũng biết đánh chiêng”- bà Sỹ nói.

Bà Sỹ nhớ như in, thời niên thiếu, dẫu cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng nghe tiếng chiêng là lòng rộn ràng, háo hức, mọi người tập trung tìm đến. Thời gian, không gian đánh chiêng tùy thuộc vào gia chủ nhưng có lẽ thú vị nhất là khi đêm xuống.

Giữa bóng tối, người làng tập trung bên bếp lửa bập bùng trước sân nhà sàn, trai tráng có cơ bắp khỏe mạnh đánh chiêng Ba, các cô gái hát múa ta lêu, ca choi. Người làng cũng thả hồn theo tiếng chiêng ngân. Tập tục của đồng bào H’re là ăn Tết theo làng, theo xóm. Hôm nay có thể làng này, ngày mai làng khác. Tiếng chiêng theo đó cũng rộn vang khắp núi đồi.

“Chiêng Ba có từ rất lâu rồi, từ lúc sinh ra đã thấy. Chiêng Ba là độc nhất vô nhị của người H’re là vì nó đắt tiền. Nó đổi được bằng tiền, bạc, trâu, bò Chiêng được dùng trong dịp tết, cúng, dịp lễ tết, nói chung là ngày vui. Cha mẹ đều biết đánh chiêng. Khi cha mất có để lại cho 5 anh em mỗi người mỗi bộ chiêng, trai hay gái đều có. Con gái nếu không chơi thì để lại cho chồng, con, không được bán”- ông Phạm Văn Rôm kể.

Ngoài bà Sỹ, còn một số phụ nữ khác ở Ba Tơ cũng biết đánh chiêng Ba, nhưng phần lớn họ đều đã lớn tuổi. Bà Phạm Thị Đệ (xã Ba Thành), cứ nhớ về những đêm trăng sáng bàng bạc khắp núi rừng. Khi tiếng chiêng cất lên, bà lại hát điệu ca choi. Lời hát là tấm lòng của người con gái vừa trong lành vừa tha thiết, để những chàng trai rung động, ngỏ lời yêu. Thỉnh thoảng có dịp, bà Đệ cũng đánh chiêng, say mê và tự hào.

Gìn giữ cho mai sau

Người H’re ở Quảng Ngãi sinh sống chủ yếu ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà và Minh Long. Tuy nhiên, chỉ có người H’re ở huyện Ba Tơ mới biết trình diễn chiêng Ba và trở thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống. Tuyệt đại đa số chiêng của người H’re là dàn chiêng Ba chiếc được các gia đình lưu truyền, gìn giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác như báu vật của gia đình. Trải qua hàng trăm năm, tiếng chiêng Ba trở thành âm thanh quen thuộc và gắn bó với lớp lớp người H’re.

Chiêng Ba là tài sản quý đối với mỗi gia đình người H're.
Chiêng Ba là tài sản quý đối với mỗi gia đình người H're.

Theo quan niệm của người H’re, chiêng là vật thiêng. Họ không sử dụng chiêng trong đám tang. Những người trong năm gặp rủi ro, thì không được đánh chiêng trong những ngày vui của dân làng. Nếu được mời đánh chiêng, họ cũng từ chối... Khi sử dụng chiêng phải thực hiện nhiều nghi thức tín ngưỡng, đặc biệt là nghi thức cúng chiêng.

Chiêng Ba của người H’re ở Ba Tơ có âm thanh hoang sơ rất lạ, rất riêng. Từ tiết tấu, nhịp điệu đến sự phối âm, phối bè, sử dụng công phu tài tình, tinh tế của người đánh chiêng, có khởi đầu, có cao trào, có kết thúc, khi trầm hùng khi náo nức khi rạo rực thổn thức, lúc cao trào mạnh mẽ, dồn dập, thôi thúc. Ngày xưa, những bộ chiêng Ba quý hiếm có giá trị hàng chục con trâu, tiếng không chỉ thanh mà còn trầm ấm, tạo nên âm thanh nghe sang trọng, mạnh mẽ, náo nức lòng người.

Tấu chiêng Ba hấp dẫn và khiến nhiều người say mê đến vậy, nhưng rồi, cũng như các loại hình văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở nhiều nơi trên cả nước, hoạt động này đã bị thách thức bởi sự hòa nhập giữa văn hóa vùng cao với vùng đồng bằng.

“Phần lớn đánh chiêng là đàn ông, còn đàn bà biết đánh chiêng đều đã lớn tuổi. Mẹ tôi cũng biết, nhưng ít chơi. Bây giờ lớp trẻ ít người biết lắm, như tôi cũng chỉ biết sơ sơ thôi”- chị Phạm Thị Sung (xã Ba Thành) chia sẻ.

Phụ nữ H're đánh chiêng Ba.
Phụ nữ H're đánh chiêng Ba.

Những năm gần đây, chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc phục hồi và giữ gìn văn hóa của người H’re, trong đó có có chiêng Ba. Hiện nay, ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện Ba Tơ đều duy trì được nghệ thuật trình diễn chiêng ba, tiêu biểu nhất là ở xã Ba Vinh.

 

Người H’re huyện Ba Tơ rất coi trọng bộ chiêng Ba và cất giữ  như tài sản quý. Hiện trên địa bàn  huyện có khoảng 890 hộ gia đình có chiêng, với trên 900 bộ chiêng Ba và 740 người biết sử dụng. Năm 2021, nghệ thuật trình diễn chiêng Ba của người H’re ở Ba Tơ được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Theo ông Lê Cao Đỉnh- Phó Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Ba Tơ, nghệ thuật trình diễn chiêng Ba của người H’re không chỉ là sinh hoạt văn hóa mà quan trọng hơn chính là lưu giữ những giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

“Thường ngày, họ bận rộn với ruộng đồng, nương rẫy cùng bao việc mưu sinh, nhưng sẵn lòng tham gia khi nghe lời mời đánh chiêng, tham dự các hội diễn văn nghệ quần chúng quảng bá chiêng Ba. Họ yêu nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình và mến người thích nghe tiếng chiêng. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại hiện nay là lớp trẻ ít quan tâm, trong khi đó những người am hiểu lại ngày càng già đi, nhiều người đã mất. Địa phương đã và đang nỗ lực tìm cách giữ gìn văn hóa quý giá này”- ông Đỉnh chia sẻ.