Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc: Cần “tái định vị” thị trường để khai thác hiệu quả

Minh Anh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Trung Quốc đã là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới, với dân số hơn 1,4 tỷ người, chiếm 18,7% tổng dân số toàn cầu nên nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm nông thủy sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là rất lớn. 32 tỉnh, TP của Trung Quốc đều có nhu cầu khác nhau đối với từng loại sản phẩm cụ thể, trong đó nhiều tỉnh, TP với dân số lớn đã có thể coi là một thị trường hấp dẫn.

Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin thị trường Trung Quốc
Bên cạnh đó, Việt Nam và Trung Quốc có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thương. 2 nước đã tham gia ký kết Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) có hiệu lực từ năm 2010, với mức thuế quan giảm về 0% đối với 8.000 dòng sản phẩm, trong đó có các sản phẩm nông sản.
Tới đây, cả 2 nước tiếp tục tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) - là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, với mức độ cam kết rộng hơn, sâu hơn và có nhiều lĩnh vực mới hơn.
Lợi ích mà các Hiệp định này đem lại rất lớn, nhưng để khai thác có hiệu quả lại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tổ chức thực hiện của doanh nghiệp, với sự hỗ trợ của Nhà nước, Hiệp hội ngành hàng, đặc biệt là đối với công tác xúc tiến thương mại (XTTM).
Hải quan kiểm tra hàng hóa trước khi thông quan
Thời gian qua, thị trường Trung Quốc luôn được coi là thị trường quan trọng, hàng năm được ưu tiên nguồn lực triển khai nhiều hoạt động XTTM quy mô lớn, huy động sự tham gia của nhiều đối tượng (các Hiệp hội ngành hàng, địa phương, doanh nghiệp) với nhiều hình thức đa dạng, tại nhiều địa phương ở Trung Quốc.
Để phát huy tối đa lợi ích tiềm tàng từ các Hiệp định thương mại tự do, góp phần phát triển xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc bền vững, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, Hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp triển khai thực hiện các biện pháp, giải pháp như: Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin thị trường Trung Quốc, qua đó nắm bắt được tình hình sản xuất, phân phối, tiêu thụ các chủng loại nông sản đặc thù riêng của từng địa phương tại Trung Quốc.
Đồng thời có những giải pháp định hướng kịp thời cho các doanh nghiệp xuất khẩu, địa phương tổ chức sản xuất, xúc tiến thương mại đáp ứng phù hợp với thị hiếu tiêu dùng; đổi mới, tăng số lượng và đa dạng hóa hình thức tổ chức chương trình xúc tiến thương mại hàng năm tại Trung Quốc theo hướng tập trung trọng tâm, trọng điểm với từng chủng loại sản phẩm; tổ chức các hoạt động phát huy được hiệu quả thời gian qua như kết nối giao thương doanh nghiệp, làm việc với cơ quan quản lý và Hiệp hội ngành hàng nước sở tại để tìm hiểu thị hiếu thói quen tiêu dùng của người dân, nắm rõ cơ chế chính sách nước nhập khẩu, đề xuất các hoạt động hợp tác ở cấp độ chính phủ, doanh nghiệp tạo thuận lợi cho xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường này.
Tăng cường vai trò của các cơ quan đại diện thương mại
Bộ Công Thương đã định hướng cho các Hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp tập trung sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm nông sản có chất lượng bao bì đóng gói nhỏ, có thương hiệu, giá trị cao vào các kênh phân phối chính thức, trực tiếp tại thị trường Trung Quốc; đồng thời tích cực trao đổi giữa các cơ quan Chính phủ nhằm tháo gỡ vướng mắc về thủ tục, chính sách; mở rộng phạm vi và năng lực XTTM thông qua mạng lưới Văn phòng XTTM tại các địa phương của Trung Quốc theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, song song với việc triển khai các hoạt động XTTM truyền thống (hội chợ, triển lãm, giao thương...).
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đã chỉ đạo, tăng cường vai trò của các cơ quan đại diện thương mại, văn phòng XTTM Việt Nam tại địa bàn sở tại trong việc phối hợp tư vấn, cung cấp thông tin về các nhóm ngành hàng có ưu thế xuất khẩu của Việt Nam như trái cây nhiệt đới, thủy hải sản, cà phê, hồ tiêu, gạo... cho các doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử của Trung Quốc; chủ động tìm kiếm doanh nghiệp Trung Quốc hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã của Việt Nam ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm; tuyên truyền vận động, tổ chức đoàn mua hàng, đoàn doanh nghiệp khảo sát giao thương nhập khẩu hàng hóa, tham dự các Hội chợ, triển lãm, sự kiện XTTM quốc tế tại Việt Nam như Vietnam Expo, Foodexpo, Vietfish, Hội chợ nông nghiệp quốc tế, Triển lãm mỗi làng một sản phẩm...
Đồng thời, triển khai thực hiện hiệu quả và cụ thể hóa nội dung các Bản ghi nhớ hợp tác liên quan đến XTTM đã được ký kết, cụ thể như MOU về thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc với mục tiêu tổ chức kết nối giao thương đối với gạo, trái cây, thủy sản tại các địa phương còn dư địa tăng trưởng xuất khẩu như Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Sơn Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc...; MOU về phát triển thương mại giữa Bộ Công Thương (Cục XTTM), 12 Sở Công Thương các tỉnh/TP của Việt Nam: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Sơn La với Sở Thương mại tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); MOU về phát triển thương mại giữa Bộ Công Thương (Cục XTTM), 10 Sở Công Thương các tỉnh/thành phố (Bắc Giang, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Giang, Hải Phòng, Hưng Yên, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Sơn La) với Sở Thương mại Quảng Tây (Trung Quốc).
Tập kết dưa hấu trước khi xuất khẩu
Phải đảm bảo tiêu chí xuất xứ để được hưởng ưu đãi của FTA
Đối với các doanh nghiệp, để duy trì thị phần và mở rộng thị trường Trung Quốc, trong thời gian tới, Bộ Công Thương khuyến nghị, trước mắt, đối với công tác sản xuất, cần phải tổ chức được nguồn hàng đáp ứng đúng và đủ nhu cầu, thị hiếu của thị trường Trung Quốc. Hàng hóa có giá cả phù hợp, chất lượng tốt, phù hợp nhu cầu, thị hiếu người dân sở tại, có sản lượng đủ để cung cấp thường xuyên, lâu dài, đảm bảo tiêu chí xuất xứ để được hưởng ưu đãi của FTA.
Về phía Nhà nước, vai trò của các Bộ ngành và địa phương là đưa ra quy hoạch, định hướng đúng đắn để hỗ trợ các doanh nghiệp yên tâm sản xuất; tiếp tục đầu tư công nghệ, giống cây để nâng cao năng suất, chất lượng trái cây xuất khẩu, hạn chế việc dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên để làm lợi thế cạnh tranh; tăng cường áp dụng mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap, GlobalGap nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về kiểm nghiệm kiểm dịch ngày càng nghiêm ngặt của phía Trung Quốc.
Đối với công tác tổ chức xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chuyển dần sang kinh doanh theo hình thức thương mại chính quy, ký kết hợp đồng mua bán thay vì xuất khẩu theo hình thức “tiểu ngạch” nhằm hạn chế tối đa hiện tượng ép giá và các rủi ro khác trong thanh toán; theo dõi, cập nhật các thông tin thị trường, chính sách xuất nhập khẩu, các quy định về chất lượng sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng của từng địa phương Trung Quốc để chủ động trong kế hoạch kinh doanh với thị trường này (doanh nghiệp có thể tiếp cận các thông tin này trên Trang thông tin điện tử của Bộ Công Thương, qua các Bản tin về nông, lâm, thủy sản hàng tuần của Cục Xuất nhập khẩu hoặc trực tiếp qua Thương vụ, Chi nhánh Thương vụ của Bộ Công Thương tại thị trường Trung Quốc).
Bên cạnh đó, cần chủ động phân loại, lựa chọn chủng loại và tổ chức đóng gói ngay tại nơi sản xuất đáp ứng yêu cầu của đối tác nhập khẩu (về nhãn mác, bao bì…) trước khi đưa lên khu vực biên giới để quá trình giao nhận hàng hóa diễn ra thuận lợi, nhanh chóng; đồng thời nâng cao chất lượng, nghiêm túc thực hiện các quy định về truy xuất nguồn gốc, kê khai vùng trồng, cơ sở đóng gói cũng như các yêu cầu liên quan nhằm đáp ứng quy định, tiêu chuẩn đã thỏa thuận với nước nhập khẩu, giảm thiểu thiệt hại trong quá trình sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu.
Bên cạnh đó, nghiên cứu khả năng hợp tác với một số doanh nghiệp Trung Quốc trong lĩnh vực thương mại điện tử để nhập khẩu, tiêu thụ nông sản, trái cây qua hình thức thương mại điện tử tại thị trường này.