Có được kết quả này là cả quá trình từ xây dựng Luật Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đầu tiên ban hành tháng 12/1987, tiếp tới 3 lần sửa đổi luật này và thêm dấu ấn năm 2005 Ban hành Luật đầu tư chung, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư trong nước.
Tuy nhiên, năm 2014, việc sửa đổi và ban hành Luật Đầu tư đã tạo một bước đột phá trong tư duy của Việt Nam bởi kể từ thời điểm đó DN và nhà đầu tư được làm những gì mà pháp luật không cấm.
Những dấu ấn trên cũng cho thấy, chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam luôn linh hoạt trong đón nhận dòng vốn đầu tư phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Sản xuất linh kiện cơ khí tại Công ty Misumi Việt Nam - Khu chế xuất Linh Trung, Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. (Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN) |
Bước đột phá tư duy
Là một trong những nhân chứng cho thời kỳ đầu của đất nước “tiếp nhận” nguồn vốn FDI, Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội DN FDI tại Việt Nam (VAFIE) cho biết, sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào cuối năm 1987, để kịp thời tiếp nhận nguồn vốn quốc tế, đầu năm 1988 Chính phủ đã giao cho Bộ Kinh tế đối ngoại nhiệm vụ thẩm định và cấp phép dự án FDI.
Tháng 3/1989, Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (SCCI) được thành lập, có chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, tiếp nhận các dự án FDI do Bộ Kinh tế đối ngoại đã cấp phép và bắt đầu thực hiện các công việc có liên quan đến FDI.
Ông Nguyễn Mại kể lại: “Vào tháng 10/1989, khi đang làm Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội, tôi được cử về SCCI giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban. Khi đó, cả lãnh đạo và chuyên viên SCCI đều là “ngoại đạo” với đầu tư nước ngoài, do đó chúng tôi chủ trương tất cả cán bộ phải “vừa làm vừa học” để nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ đáp ứng đòi hỏi của lĩnh vực mới mẻ và phức tạp này”.
“Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng dựa trên sự học hỏi kinh nghiệm 18 luật đầu tư nước ngoài của các quốc gia khác. Chỉ học hỏi cái hay, nên Luật của Việt Nam hấp dẫn. Hơn nữa, khi đó, các nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia chỉ mở cửa dần dần, giới hạn đầu tư của nước ngoài là 49%, còn Việt Nam thì ngay lập tức mở cửa, chấp nhận DN 100% vốn nước ngoài. Luật chỉ giới hạn tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài là 30%, mà không giới hạn tối đa”, ông Nguyễn Mại nói
Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên, khi Luật Đầu tư nước ngoài mới ban hành, nguồn vốn đầu tư của các DN FDI vào Việt Nam còn rất ít. Chỉ trong hơn 2 năm, kể từ năm 1988 đến tháng 5/1990, chỉ có 213 giấy phép đầu tư được cấp, với tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD.
Khi ấy, dòng vốn FDI vào Việt Nam còn dè dặt, bởi công cuộc Đổi mới của Việt Nam mới chập chững những bước đi đầu tiên.
Bắt đầu đến năm 1991, một làn sóng đầu tư nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam. Theo đó, chỉ trong vòng 7 năm, đã có 2.230 dự án đăng ký đầu tư vào Việt Nam, với 16,244 tỷ USD vốn đăng ký và 12,98 tỷ USD vốn thực hiện. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115 tỷ USD, gấp 9,5 lần năm 1991.
Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại nhớ lại, vào năm 1991, Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT) với 1 tập đoàn bưu chính viễn thông của Australia được ký kết với tổng vốn đầu tư khoảng 10 triệu USD, được xem là một hợp tác tốt, đặt nền móng cho Việt Nam phát triển trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Mặc dù, nguồn vốn đầu tư rất ít ỏi nhưng Australia đã đưa được những công nghệ hiện đại nhất về viễn thông vào Việt Nam.
Australia còn đào tạo cho ngành bưu chính viễn thông những nhà lãnh đạo theo kiểu mới thích ứng được kinh tế thị trường; tiếp cận với công nghệ hiện đại; đồng thời, thay đổi được phương thức quản trị của VNPT theo hướng kinh tế thị trường.
"Đầu kéo" cho phát triển
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), sau hơn 30 năm “đón” vốn FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 183,62 tỷ USD, bằng 55% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định, khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Hiện nay, 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế như dầu khí, điện tử, viễn thông….
Cùng với bổ sung vốn cho nền kinh tế, DN FDI còn góp phần chuyển giao kỹ năng quản lý cho người Việt, đổi mới công nghệ đối với các DN trong nước.
Đặc biệt, khu vực đầu tư nước ngoài đã có những hiệu ứng lan tỏa đối với các lĩnh vực của nền kinh tế, thông qua việc tiếp cận công nghệ tiên tiến và chuẩn mực quốc tế trong quản trị doanh nghiệp, phát triển kỹ năng của lực lượng lao động, cũng như tạo ra nhiều việc làm trong các lĩnh vực của nền kinh tế…
Tính đến nay, khu vực DN FDI tạo việc làm cho hơn 3,6 triệu lao động trực tiếp và từ 5 - 6 triệu lao động gián tiếp.
Nhấn mạnh về những thành tựu đạt được, Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại cho biết, các số liệu thống kê quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam từ năm 2000 đến nay cho thấy quy mô nền kinh tế đất nước đã lớn gấp nhiều lần; trong đó, khu vực FDI góp phần to lớn.
Chẳng hạn, trong giai đoạn 1991 - 2000, vốn FDI thực hiện đạt 19,462 tỷ USD, bình quân 1,95 tỷ USD/năm thì giai đoạn 2001-2010 đạt 58,497 tỷ USD, bằng 3 lần thập niên trước đó và bình quân 5,85 tỷ USD/năm. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2016 đạt 84 tỷ USD, bằng 4,55 lần giai đoạn 1991-2000 và 1,43 lần 10 năm trước đó, bình quân thu hút 12 tỷ USD/năm.
Đối với những địa phương thu hút được nhiều dự án FDI như: Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, đóng góp của khu vực này còn lớn hơn nhiều, làm thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế của từng tỉnh, TP, tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước phát triển và kinh doanh có hiệu quả cao.
Điển hình là Bắc Ninh, nhờ thu hút có hiệu quả FDI, chỉ trong 5 năm gần đây đã biến đổi cơ bản, từ tỉnh nông nghiệp trở thành tỉnh công nghiệp. Hiện nông nghiệp của tỉnh này chỉ còn khoảng 8%, công nghiệp và dịch vụ chiếm 82% cơ cấu kinh tế tỉnh.
Đánh giá cao môi trường đầu tư của Việt Nam, trong một chuyến thăm và làm việc với các đối tác Việt Nam gần đây, ông Kuniharu Nakamura đồng Chủ tịch Ủy ban Kinh tế Nhật-Việt của Liên đoàn Các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren) cho biết, đối với các doanh nghiệp Nhật Bản, Việt Nam là thị trường rất hấp dẫn bởi có dân số đông, là cửa ngõ tiếp nối với ASEAN, chính trị xã hội ổn định, bền vững. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn được sang Việt Nam đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Ông Kuniharu Nakamura bày tỏ mong muốn, Chính phủ Việt Nam tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hoàn thiện hạ tầng thể chế, khuôn khổ pháp lý để sẵn sàng đưa Hiệp định đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) vào triển khai sau khi phần Hiệp định khung đã được ký kết.
Là nhà đầu tư lớn nhất Việt Nam, đại diện Tập đoàn Samsung cho biết, Samsung luôn nỗ lực cùng Chính phủ Việt Nam phát triển nền công nghiệp hỗ trợ nội địa thông qua nhiều chương trình hành động thực tế như: tổ chức hội thảo, triển lãm kết nối các nhà cung ứng địa phương, tổ chức các chuyến khảo sát để đánh giá năng lực thực tế của các nhà cung cấp Việt Nam, phối hợp tổ chức chương trình đào tạo chuyên gia tư vấn Việt Nam…
Với mong muốn gắn kết lâu dài và bền vững với Việt Nam, Samsung là DN đầu tư nước ngoài đầu tiên chính thức chung tay cùng Chính phủ Việt Nam tổ chức các chương trình, hoạt động nhằm hỗ trợ thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ trong nước.
Ông Gunjae Kim, Chủ tịch Công ty thuốc thú y Hwasung Co, Ltd (Hàn Quốc) cho biết, hiện có rất nhiều DN Hàn Quốc thuộc các lĩnh vực đã thâm nhập và hoạt động khá lâu tại Việt Nam.
Riêng lĩnh vực thuốc thú y của Hàn Quốc cũng mới nổi lên và dành sự quan tâm tới thị trường Việt Nam.
Điều đó cho thấy, cộng đồng DN Hàn Quốc đang và sẽ đầu tư tại Việt Nam đánh giá rất cao về môi trường và các chính sách thu hút đầu tư tại đây.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc, ông Lê Duy Thành chia sẻ, các DN nhỏ của Vĩnh Phúc cũng bắt đầu bắt nhịp được vào dòng chảy của khu vực FDI khi hiện có nhiều DN tham gia làm nhà cung ứng cấp 1 cho các DN FDI, đem lại sự thay đổi trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, công nghệ của các DN.
Loại bỏ những mảng tối
Mặc dù, bên cạnh những thành công đã đạt được trong thu hút FDI nhưng Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại cũng chia sẻ, Luật Đầu tư nước ngoài 1987, không thể tránh khỏi những thiếu sót, hoặc hạn chế mà trong quá trình thực hiện mới nảy sinh”.
Năm 1990, Việt Nam đã lần đầu tiên phải sửa đổi Luật. Sau đó, liên tục có các đợt sửa đổi Luật trong năm 1992, 1996, 2000, 2005, rồi năm 2014, để có các quy định phù hợp hơn với diễn biến kinh tế thế giới và Việt Nam. Thế nhưng, vai trò của Luật Đầu tư nước ngoài 1987 là vô cùng to lớn.
Đóng góp của khu vực FDI vào nền kinh tế là không thể phủ nhận, song các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, bên cạnh những dấu ấn tích cực, khu vực FDI vẫn còn bộc lộ những hạn chế như: sự liên kết giữa khu vực FDI và DN trong nước còn lỏng lẻo, tỷ lệ nội địa hóa thấp, nhất là đối với ngành công nghiệp ô tô, điện tử.
Theo Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại, nhược điểm chính của FDI hiện nay chính là tác động lan toả. Ông khẳng định, tại Việt Nam, tác động lan toả chưa được như kỳ vọng, thể hiện trong việc các DN Việt Nam vẫn hạn chế trong việc tham gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo đánh giá chung của các nhà kinh tế, Việt Nam có 21% DN tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, trong khi đó ở Thái Lan tỷ lệ này là 30%, ở Malaysia là 46%. Như vậy, Việt Nam kém xa các nước xung quanh về mặt này.
Bên cạnh đó, có rất nhiều dự án FDI đầu tư vào Việt Nam với mục đích tận dụng nguồn lao động giá rẻ, sử dụng máy móc công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; trong đó, có những sự cố môi trường nghiêm trọng như trường hợp của Formosa Hà Tĩnh, Vedan Đồng Nai; bên cạnh việc sử dụng tài nguyên, nhất là đất đai còn lãng phí.
Cùng với đó, có không ít các DN FDI đầu tư tại Việt Nam vướng vào nghi án chuyển giá, trốn thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.
Đặc biệt, theo Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại, nhiều dự án FDI chưa phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và vùng kinh tế.
FDI chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ với DN Việt Nam để cùng tham gia chuỗi giá trị, chưa thúc đẩy được công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phát triển. Hoạt động chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý của khối DN này chưa đạt như kỳ vọng; đóng góp vào ngân sách nhà nước chưa tương xứng.
Về cơ cấu đầu tư, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn rất ít, đầu tư từ các nước phát triển như Hoa Kỳ và EU vào Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng…
Theo tiến sĩ Phan Hữu Thắng - nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, việc nhìn thẳng vào sự thật còn có nhiều tồn tại trong thu hút và sử dụng FDI thời gian qua để thấy rõ các nguyên nhân, tìm giải pháp để loại bỏ các mảng tối trong bức tranh FDI là một đòi hỏi cấp thiết đối với quản lý nhà nước về FDI trong giai đoạn tới.
Coi trọng nhưng không hy sinh mọi giá
Xu hướng của dòng vốn toàn cầu đang tiếp tục diễn ra. Xu hướng này cho thấy đối với Việt Nam trong giai đoạn tới, với sự chỉ đạo, điều hành của một Chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ DN và người dân, Việt Nam có nhiều lợi thế để thu hút FDI.
Được đánh giá là quốc gia hấp dẫn thu hút FDI với những ưu thế nổi trội như: Vị trí thuận lợi, chính trị ổn định, dân số đông, thị trường tiêu thụ rộng lớn. Giá nhân công của Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá rẻ hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới.
Đặc biệt, theo ông Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), chính sách thu hút FDI của Việt Nam khá thuận lợi, trong khi nhiều quốc gia trên thế giới có chính sách đầu tư không nhất quán, liên tục “đóng - mở,” thì Việt Nam luôn duy trì chính sách “cởi mở” trong thu hút đầu tư.
Đây là một trong những “điểm cộng” quan trọng giúp Việt Nam nhận được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trên thế giới.
Tuy nhiên, để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tồn tại của dòng vốn FDI, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, đã đến lúc chúng ta cần hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh để lựa chọn, thu hút các dự án FDI chất lượng cao, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như những biến đổi của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng 4.0 và xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư quốc tế.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, sẽ xác định những lĩnh vực, ngành nghề và đối tác cần ưu tiên thu hút FDI.
“Việt Nam phải tập trung ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao của các tập đoàn xuyên quốc gia trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, nông nghiệp hiệu quả cao, công nghệ thông tin và các lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có tiềm năng và lợi thế so sánh. Đó cũng phải là các dự án thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, low-carbon và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam cũng sẽ ưu tiên thu hút các dự án có sức lan tỏa, gắn kết với khu vực DN trong nước”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh.
Theo Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại, Việt Nam không nên thu hút thêm dự án FDI sản xuất xi măng, sắt thép, lọc hóa dầu, hạn chế bằng cách chọn lựa nhà đầu tư và công nghệ hiện đại thực hiện một số dự án nhiệt điện than, khí; đồng thời khuyến khích bằng chính sách ưu đãi đủ hấp dẫn các tập đoàn kinh tế lớn vào các dự án điện mặt trời, điện gió, điện tái tạo và trong tương lai gần là điện thủy triều.
Để nâng cao tính lan tỏa của khu vực FDI, Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Mại đề xuất, đối với một số dự án mà DN Việt Nam đủ năng lực liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài thì khuyến khích thực hiện bằng hình thức “DN liên doanh” để thông qua quan hệ hợp tác cùng có lợi nhằm chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị DN, nâng cao trình độ lành nghề của đội ngũ công nhân, kỹ sư và cán bộ Việt Nam.
“Trong khi vẫn coi trọng thu hút FDI từ các DN vừa và nhỏ thì cần coi trọng hơn vốn đầu tư từ các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới trong ngành và lĩnh vực công nghệ cao để tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng lớn và chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, cần điều chỉnh chính sách ưu đãi đối với dự án đầu tư theo hướng gắn với định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở từng vùng kinh tế, từng địa phương,” giáo sư, tiến sỹ khoa học Nguyễn Mại cho biết.
Dưới góc độ quản lý, tiến sĩ Phan Hữu Thắng cho rằng, cần nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về FDI và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức thừa hành. Những tồn tại của FDI được nhắc đến đều có thể xuất phát từ sự yếu kém về quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước.
Chính vì thế, khắc phục các tác động xấu của FDI để tiếp tục sử dụng vốn FDI hiệu quả hơn trong giai đoạn tới là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý nhà nước về FDI.
Ông Đặng Xuân Quang - Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề chất lượng nguồn vốn FDI đang được đặt lên hàng đầu. Việt Nam không thể vì số lượng mà hy sinh chất lượng, đó là quan điểm rất rõ ràng.
Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo là không thể vì tăng trưởng mà hủy hoại môi trường, không thể vì phát triển nhanh mà quên đi yếu tố bền vững. Tất cả những điều này hiện nay đang quán triệt thực hiện.
“Còn giải pháp đưa ra trong thời gian tới, với quan điểm là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý về FDI, chúng ta sẽ tập trung vào các giải pháp về thị trường, tức là các giải pháp để phù hợp với kinh tế thị trường”, ông Quang nhấn mạnh.
Bằng những nỗ lực không ngừng trong cải cách của Chính phủ, sự thân thiện cởi mở của người dân Việt Nam, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng hy vọng rằng, với chính sách cởi mở của Việt Nam, trong thời gian tới, các DN đã đầu tư tiếp tục mở rộng đầu tư và phát huy hiệu quả, ngày càng phát triển. Những nhà đầu tư chưa có dự án đầu tư, nhanh chóng tìm cơ hội đầu tư, mang lại lợi ích cho DN mình, tham gia đóng góp phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.