Bà Nguyễn Lan Hương, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động & Xã hội cho biết, Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu ký kết biên bản ghi nhớ tiếp nhận lao động theo chương trình phái cử (EPS) từ năm 2004 và gia hạn 2 năm một lần.
Ảnh mang tính chất minh họa. Nguồn: Internet.
Từ đó đến nay, Việt Nam đưa được hàng chục ngàn lao động sang Hàn Quốc làm việc. Tuy nhiên, do tình trạng lao động hết hạn hợp đồng, không về nước, bỏ trốn cư trú và làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc ở mức cao, chiếm trên 50% (17.000 người), cao nhất trong tổng số 15 nước có ký kết EPS với Hàn Quốc. Vì thế, từ 8/2012 đến nay, Hàn Quốc đã tạm dừng gia hạn hợp đồng chương trình EPS với Việt Nam, không tiếp nhận lao động mới Việt Nam. Do đó, 12.000 lao động trong nước đã qua kỳ thi kiểm tra tiếng Hàn, nộp hồ sơ lên mạng không có cơ hội sang Hàn Quốc làm việc.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hai nguyên nhân chính khiến lao động Việt Nam bỏ trốn sau khi hết hợp đồng, đó là chênh lệch thu nhập và chi phí xuất cảnh. Trung bình, thu nhập việc làm của lao động Việt Nam tại Hàn Quốc cao gấp 7-10 lần so với tại Việt Nam. "Trong quá trình họ làm việc tại Hàn Quốc, họ có thu nhập khá cao. Việc họ không trở về ảnh hưởng lớn đến nhóm lao động khác. Vì vậy, ý thức tổ chức kỷ luật của người lao động rất quan trọng", bà Hương cho biết.
Về số tiền để hoàn tất chi phí để xuất cảnh, có nhiều người phải bỏ ra tới 80 đến 200 triệu đồng, do thiếu hiểu biết nên bị giới “cò mồi” lừa đảo, hoặc cố tình mất tiền để không phải vất vả làm hồ sơ hay không phải học và thi tiếng Hàn Quốc. Chính vì vậy, dù khi kết thúc hợp đồng 4 năm 10 tháng hoặc 6 năm, một lao động có thể gửi về gia đình khoảng 50.000 -70.000 USD nhưng tâm lý lao động vẫn muốn bỏ trốn để gỡ lại chi phí bỏ ra.
Tiền đóng bảo hiểm xã hội khi làm việc có hợp đồng khá cao, nhưng khi về nước họ cũng không thể chuyển sổ bảo hiểm về Việt Nam. Tiền trợ cấp thôi việc khi hết hợp đồng cũng được trả ngay khi kết thúc hợp đồng nên nếu bỏ trốn, lao động cũng không có gì để mất.
Ngoài nguyên nhân do nhận thức và ý thức của nhiều lao động Việt Nam còn hạn chế, các ý kiến tại hội thảo cho rằng: Công tác tuyển dụng và quản lý lao động đi làm việc ở Hàn Quốc; nhu cầu sử dụng lao động di cư không có giấy tờ hợp pháp của các chủ sử dụng lao động Hàn Quốc; môi trường, thể chế, chính sách và công tác quản lý lao động di cư của Hàn Quốc còn hạn chế…cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến việc lao động Việt Nam hết hạn hợp đồng lao động không về nước, bỏ trốn và làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc.