Nếu mọi điều bạn biết về giám sát video là từ phim ảnh hay đọc trên báo, bạn sẽ nghĩ mọi người đã có các hệ thống IP video mới nhất, những chiếc camera độ phân giải cao nhất và những phân tích tinh vi nhất. Trên thực tế, khoảng 80% thị trường giám sát video vẫn sử dụng các analog camera được kết nối với các đầu ghi video kỹ thuật số (DVR - digital video recorder), Bob Stockwell, Giám đốc vận hành hệ thống của công ty tích hợp hệ thống an ninh Niscayah, cho biết.
Sự tăng trưởng IP video vấp phải khó khăn trong thời kỳ kinh tế suy thoái, nhưng hiện các nhà phân tích dự đoán mức tăng trưởng 25% đến 35% hàng năm đối với IP video. John Honovich, Chủ tịch của IP Video Market, thậm chí còn lạc quan hơn, ông dự đoán thị trường sẽ tăng 200% từ nay đến năm 2012, nhờ giá và độ phức tạp của các IP camera ngày càng giảm, cùng các tính năng như ghi toàn cảnh với số camera cần thiết ít hơn, và khả năng của các DVR lai cho phép chuyển sang IP đối với các hệ thống analog trước đây.
Yếu tố cuối cùng này là một tác nhân chính cho các công ty muốn thêm các IP camera tới môi trường analog hiện có của họ. Trước đây, IP camera yêu cầu phần mềm quản lý video (VMS - video management software) hoặc bộ ghi video qua mạng (NVR - network video recorder). Để xem và quản lý tất cả cảnh quay trên cùng hệ thống, các công ty cũng cần các bộ mã hóa (là máy chủ video) để số hóa các tín hiệu của các analog camera.
Tuy nhiên, hiện nay, các DVR lai – mà cho phép bạn kết nối trực tiếp các camera, cả analog lẫn IP, và ghi lại, cho xem và quản lý video – đã trở thành xu thế. Theo Honovich, các hệ thống này cho phép xem từ xa, có giao diện người dùng và phân tích tốt, và có thể tích hợp với hệ thống lưu trữ từ xa, các hệ thống kiểm soát truy cập và các thiết lập bên thứ ba khác.
“Hai năm trước, có khoảng 70% bộ mã hóa và 30% thiết bị lai. Nhưng hiện giờ tỷ lệ đã đảo ngược, trong đó thiết bị lai chiếm 60% và 40% là bộ mã hóa”, nhà phân tích Jeff Vining tại Gartner, nói.
Vậy thì lựa chọn nào thích hợp với bạn? Trước hết, hãy xem xét số lượng camera. Một DVR lai thông thường hỗ trợ khoảng 24 camera (16 analog và 8 IP), Tim Feury, Chủ tịch công ty tích hợp hệ thống loa Altec Systems cho biết. Do vậy, với một khách hàng hiện tại, một bệnh viện sử dụng 96 camera, Feury cần khoảng từ 3 đến 6 DVR lai. Thay vào đó, ông dùng các bộ giải mã và một máy chủ trung tâm. “Tôi cần truy cập vào mỗi thiết bị với những bộ mã hóa, tôi có thể quản lý nó như một hệ thống”, ông nói thêm, mỗi khi bạn có hơn 50 camera, chuyển sang sử dụng các bộ mã hóa sẽ có lợi hơn.
Còn phải nghĩ về tỷ lệ khung hình, ông nói, bởi vì các đầu lai có tỷ lệ khung hình tối đa. Lấy ví dụ, một đầu lai hỗ trợ 24 camera không thể xử lý 30 khung hình/giây.
Và trong khi tất cả các nhà cung cấp DVR trước đây đều cung cấp các bộ DVR lai, Feury nói, không phải mọi nhà cung cấp VMS cung cấp DVR lai. Do vậy nếu bạn chọn một VMS mà không phải hình thức lai, bạn phải sắm những bộ mã hóa. Một điều quan trọng nữa là phải kiểm tra IP camera làm việc với thiết bị lai.
Theo Feury thì các bộ mã hóa có giá khoảng 300 đô la Mỹ (300 USD, 5,882 triệu đồng) đến 400 USD (7,843 triệu đồng) trên một analog camera, cộng thêm chi phí cho phần mềm VMS và phần cứng. Các hệ thống lai có giá khoảng 5.000 USD (98,04 triệu đồng) đến 10.000 USD (~196,1 triệu đồng), bao gồm giấy phép sử dụng 16 analog camera, hệ thống lưu trữ và phần mềm quản lý. Một số giấy phép bao gồm IP trong chi phí, trong khi số khác tính thêm, ông nói.