Theo ông Hiển, thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tập trung “siết” kỷ luật dự toán, tránh hiện tượng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư do triển khai chậm trễ, không đúng tiến độ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% Bộ Tài chính vừa có báo cáo gửi Thủ tướng về việc bảo lãnh vay nợ cho các dự án, chương trình trong năm 2015, theo đó, tỷ lệ nợ Chính phủ cam kết bảo lãnh vay cho các DN tăng mạnh. Có vẻ như bảo lãnh DN đang khiến nợ công thêm nặng gánh, thưa ông? - Ở Việt Nam, cơ cấu nợ công đến cuối năm 2015 bao gồm nợ Chính phủ chiếm 80,8%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,4%. Ngoài ra, trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có xu hướng tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 61% xuống còn 43%. Cơ cấu nợ công này là phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 tầm nhìn đến 2030. Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đánh giá, cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững. Thời gian tới, giảm bảo lãnh Chính phủ cũng là một giải pháp quan trọng mà Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện để giảm áp lực nợ công. Bộ Tài chính cho rằng, cơ cấu nợ công là bền vững. Tuy nhiên, con số dư nợ Chính phủ tăng cao, năm sau cao hơn năm trước là rất đáng lo ngại. Nguyên nhân vì sao, thưa ông? - Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2011 - 2015, nợ công tăng khoảng 12,2% GDP, từ mức 50% vào năm 2011 lên 62,2% vào cuối năm 2015. So với mức tăng 9% GDP của giai đoạn 2006 - 2010 thì khá cao. Vấn đề nợ công tăng nhanh, nguyên nhân trước tiên là áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2001 - 2005, đầu tư toàn xã hội bình quân là 39% GDP. Sang giai đoạn 2006 - 2010, tỷ lệ này đạt 42,9% GDP. Trong 5 năm 2011 - 2015, mặc dù mức vốn đầu tư toàn xã hội giảm nhưng vẫn duy trì khoảng 32% GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu tư chỉ khoảng 25% GDP dẫn đến sự thiếu hụt về nguồn vốn cho đầu tư, đồng nghĩa với việc phải đi vay. Việt Nam là một nước đang trong giai đoạn phát triển, cũng như rất nhiều các nước phát triển khác, buộc phải tăng vay nợ cho đầu tư, đặc biệt là các công trình kết cấu hạ tầng đồng bộ…từ đó khiến quy mô nợ công tăng lên. Việc mất giá của VND, biến động khó lường của các đồng tiền vay khác như USD, JPY, CNY cũng làm quy mô nợ của Chính phủ tăng khi quy đổi sang VND. Bộ Tài chính đã có giải pháp nào để giảm áp lực và đảm bảo an toàn nợ công trong 5 năm tới? - Trước hết, chúng tôi sẽ giám sát kỹ các khoản vay mới. Như tôi đã nói ở trên, áp lực vay nợ cho phát triển kinh tế - xã hội là rất lớn. Vì vậy, để giảm áp lực này trước hết phải xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn trong khả năng cân đối và đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa; Kiểm soát chặt chẽ danh mục đầu tư công và chỉ tập trung đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt cần sự đầu tư của Nhà nước. Thứ hai, việc thực hiện các chương trình, dự án sử dụng nợ công phải tuân thủ đúng dự toán được giao; Tránh hiện tượng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư, đặc biệt là tăng từ nguồn vốn vay do triển khai chậm, không đúng tiến độ dẫn đến khối lượng tăng lên. Thứ ba, kiên quyết cắt giảm bội chi ngân Nhà nước (NSNN) sách theo lộ trình; Tiếp tục giảm bảo lãnh Chính phủ, ưu tiên bố trí nguồn NSNN để trả nợ. Thứ tư, thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước nhằm tăng nguồn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Thứ năm, chủ động xây dựng phương án điều chỉnh tổng mức vay và hạn mức nợ tương ứng để đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia. Xin cảm ơn ông!
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến hết năm 2015, tổng số nợ thực tế được Chính phủ bảo lãnh là khoảng 21 tỷ USD, chiếm gần 18% tổng dư nợ công và bằng 11,1% GDP. Riêng giai đoạn 2011-2015, con số Chính phủ bảo lãnh gấp 3 lần giai đoạn 2007- 2010, ở mức khoảng 15,6 tỷ USD. |