Nhờ kinh tế thế giới phục hồi, năm 2017 vừa qua được đánh giá là một năm khá thành công với ngành sản xuất gỗ xuất khẩu và triển vọng năm 2018 cũng rất sáng sủa. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi về thị trường, ngành gỗ cũng sẽ phải đối mặt với một số thách thức lớn trong bối cảnh khan hiếm nguồn nguyên liệu “sạch” và môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Tương lai “xanh” cho ngành gỗ
Hiện tại, ngành gỗ Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 100 nước và vùng lãnh thổ. Các DN gỗ và chế biến lâm sản trong nước tập trung đầu tư vào nâng cao chất lượng sản xuất, kinh doanh, tích cực liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp.
Đến nay, đã có nhiều mô hình hợp tác, liên kết giữa công ty chế biến, sản xuất sản phẩm đồ gỗ với người trồng rừng gỗ lớn, có chứng nhận quản lý rừng bền vững tại các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Quảng Trị…
Cùng với những thị trường quen thuộc như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc hiện EU là thị trường xuất khẩu đồ gỗ lớn của các DN Việt Nam. Năm 2017, ngành này đã đạt hơn 7 tỷ USD và dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng cao trong năm 2018.
Triển vọng phát triển ngành gỗ và thủ công mỹ nghệ được dự báo sẽ tăng trưởng khả quan hơn nhờ tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) dự kiến có hiệu lực vào đầu năm 2018 và Hiệp định đối tác tự nguyện về thực thi lâm luật, quản trị rừng, thương mại gỗ và sản phẩm gỗ (VPA/FLEGT) vừa được Việt Nam và EU ký tắt vào tháng 5/2017.
Phát biểu tại hội thảo mới đây về đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ vào thị trường châu Âu, bà Bùi Thị Thanh An - Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại - Bộ Công Thương cho biết, triển vọng phát triển ngành gỗ và thủ công mỹ nghệ tại thị trường châu Âu đươc dự báo tăng trưởng khả quan nhờ các hoạt động xây dựng thị trường tại EU được đẩy mạnh, tác động của Hiệp định EVFTA và Hiệp định VPA/FLEGT.
Sắp tới, hầu hết các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và nội thất xuất khẩu từ Việt Nam sang EU sẽ được hưởng mức thuế 0% khi EVFTA có hiệu lực. Mức thuế này được áp dụng cho các sản phẩm gỗ chế biến và sản phẩm gỗ (mức thuế trước EVFTA là 3%); đồ nội thất bằng tre hoặc mây (mức thuế trước là 5,6%); ván ép gỗ (trước là 4%), đồ trang trí bằng gỗ (trước là 3%).
Tuy nhiên, để nắm bắt được cơ hội xuất khẩu là vấn đề không hề đơn giản đối với các DN nội. Theo ông Huỳnh Văn suarD - Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA), hiện kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam còn chiếm một tỷ trọng quá nhỏ bé so với giá trị tiêu thụ đồ gỗ trên toàn thế giới đạt khoảng 467,7 tỷ USD/năm.
"Điểm mấu chốt vẫn là sản phẩm có giá trị cao, hướng tới các thị trường khó tính luôn đòi hỏi các quy trình nghiêm ngặt về nguồn gốc gỗ, trong khi các DN trong nước chưa gây dựng được uy tín đối với thị trường này", ông Hạnh cho biết.
Do đó, các DN sản xuất kinh doanh gỗ và sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống cần chủ động nắm bắt thông tin, kiểm soát tốt nguồn nguyên liệu cũng như hoạt động sản xuất, chế biến để có thể tận dụng được lợi thế từ các cam kết trong quan hệ hợp tác.
Phải đảm bảo nguồn gỗ nguyên liệu ‘sạch’
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), hiện nay, các DN đang đối mặt với ít nhất năm thách thức về nguồn cung nguyên liệu gỗ, đó là thách thức về thu mua nguyên liệu gỗ rừng trồng, cạnh tranh đối với các thương nhân nước ngoài vào thu mua gỗ rừng trồng của Việt Nam, thách thức về chất lượng gỗ rừng trồng trong nước, thách thức về gỗ có chứng chỉ FSC và thách thức về nguồn cung trong tương lai gần.
Việt Nam hiện nay mua gỗ từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, việc tìm nhà cung cấp với gỗ có nguồn gốc hợp pháp cũng là một khó khăn. Với dự kiến đến năm 2020 đạt 10 tỷ USD xuất khẩu thì nguồn cung gỗ nguyên liệu sẽ thêm 4 đến 5 triệu m3/năm.
Do đó, VIFORES đề nghị Chính phủ xem xét cấm xuất khẩu gỗ tròn, gỗ hộp, gỗ xẻ thô,… như nhiều quốc gia trong khu vực đã làm, đồng thời đề nghị Bộ Tài chính xem xét hướng dẫn mức thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng gỗ. Cần tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế tham gia trồng rừng vay vốn dài hạn để duy trì rừng trồng đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất đồ gỗ xuất khẩu.
Bên cạnh đó, các DN chế biến gỗ Việt Nam phải kiên quyết nói không với gỗ bất hợp pháp để duy trì vị trí top 5 quốc gia có nền công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Ông Nguyễn Tôn Quyền - Tổng thư ký VIFORES, lưu ý: Việt Nam và EU đã kết thúc đàm phán Hiệp định VPA/FLEGT, theo đó, tất cả các sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu vào EU đều phải có nguồn gốc hợp pháp.
"Việc này phải được thực hiện trong bối cảnh Trung Quốc đã cấm khai thác và xuất khẩu gỗ nguyên liệu, thương nhân Trung Quốc sẽ tràn ra thế giới thu mua nguyên liệu, bao gồm thu mua ở Việt Nam. Lào và Campuchia - các nước cung cấp gỗ chính cho Việt Nam, cũng đã có chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ từ rừng trồng", ông Quyền cho biết.
"Mở rộng và phát triển của ngành gỗ hiện nay đang phải đối mặt với một số khó khăn, trong đó đặc biệt phải kể đến cạnh tranh về nguồn gỗ nguyên liệu. Cạnh tranh thể hiện cả về nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu và nguồn cung từ trong nước", Tổng thư ký VIFORES nhấn mạnh.
Theo ông Tô Xuân Phúc - chuyên gia phân tích chính sách tại tổ chức Forest Trends, việc loại bỏ nguồn gỗ nguyên liệu rủi ro cao có nguồn gốc từ nhập khẩu, thay thế bởi các nguồn gỗ nguyên liệu "sạch" là nhu cầu cấp bách.
Điều này không những nhằm đáp ứng với các yêu cầu hiện nay từ các thị trường xuất khẩu quan trọng, truyền thống của Việt Nam mà còn góp phần chuẩn bị sẵn sàng cho ngành gỗ Việt Nam trong việc đáp ứng với các yêu cầu mới tại các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc trong tương lai.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tính từ 1/1 đến 15/12/2017, xuất khẩu gỗ thu về 7,252 tỷ USD, ước cả năm đạt 7,6 tỷ USD. Nếu cộng cả giá trị xuất khẩu sản phẩm nội thất từ gỗ thì kim ngạch ngành gỗ là 8,525 tỷ USD. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu gỗ số 1 của Việt Nam. Đứng thứ hai là thị trường Trung Quốc, và vị trí thứ 3 thuộc về Nhật Bản. |