Theo đó, dung tích của hầu hết các hồ có trữ lượng lớn đạt 65 - 80% dung tích thiết kế. Một số hồ đạt mức cao, như: Cửa Đạt 89% (Thanh Hóa); Vực Mấu 89%, Vệ Vừng 105% (Nghệ An); Vực Trống 101% (Hà Tĩnh); Tiên Lang 101% (Quảng Bình); Hòa Mỹ 101%, Mỹ Xuyên 81% (Thừa Thiên Huế)...Đối với các hồ chứa nhỏ, dung tích tại Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, hầu hết đạt trên 80% dung tích thiết kế; tại Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế các hồ đạt trung bình 60 - 80% dung tích thiết kế. Các tỉnh có nhiều hồ đầy nước gồm: Thanh Hóa 420/584 hồ; Nghệ An 290/588 hồ; Hà Tĩnh 280/316 hồ. Đáng chú ý, toàn khu vực Bắc Trung Bộ hiện có 83 hồ chứa xung yếu (15 hồ lớn, 68 hồ vừa và nhỏ), các tỉnh có nhiều hồ xung yếu như: Thanh Hóa 20 hồ, Nghệ An 19 hồ, Hà Tĩnh 16 hồ,... Trong đó, có 12 hồ chứa có nguy cơ mất an toàn cao và cần được đặc biệt cần quan tâm gồm: Làng Mọ, Kim Giao, Làng Lụt (Thanh Hóa); Hòn Mát, Đồn Húng, Khe Sân, Khe Gang (Nghệ An); Lối Đồng (Hà Tĩnh); Vùng Mồ, Bàu Cừa, Đập Làng (Quảng Bình); Kinh Môn (Quảng Trị).Theo Tổng cục Thủy lợi, các hồ chứa đang chủ động được các công ty thủy lợi vận hành bảo đảm an toàn; các hồ chứa nhỏ do các địa phương được quản lý tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi diễn biến mực nước và hiện trạng công trình; đến nay, chưa có báo cáo về sự cố mất an toàn công trình của các địa phương.