Con số thống kê cho biết, cả nước có 8.675 luật sư và gần 500 trợ giúp viên pháp lý, so sánh với dân số 90 triệu người thì tỷ lệ luật sư ở nước ta mới ở mức 1/14.000 dân, trong khi đó, tỷ lệ này ở Singapore là 1/1.000, ở Mỹ là 1/250. Bên cạnh số lượng luật sư hiện có so với số dân còn rất thấp, đội ngũ luật sư còn có sự phát triển mất cân đối lớn giữa khu vực thành thị-nông thôn, miền núi-đồng bằng và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Số lượng luật sư tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, còn tại các địa phương khác, số lượng luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý. Điều này dẫn đến tình trạng chỉ có 20% số vụ án hình sự là có người bào chữa cho bị cáo, còn lại 80% các vụ án hình sự, các bị cáo “trắng” người bào chữa.
Cả nước hiện có 8.675 luật sư.
|
Mặc dù Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định rõ: Người bào chữa có thể là Luật sư; Người đại diện hợp phép của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; hoặc Bào chữa viên nhân dân nhưng hiện nay khi nói đến người bào chữa người dân thường nghĩ đến luật sư, trong khi đây là nguồn dồi dào hỗ trợ pháp lý cho người dân ở vùng sâu, vùng xa. Đây là nguyên nhân vì sao nhiều người dân chưa tiếp cận được các dịch vụ pháp lý, dẫn đến việc thiếu trầm trọng người bào chữa trong các vụ án hình sự
Bà Tạ Thị Minh Lý, Chủ tịch Hội Bảo trợ tư pháp cho người nghèo Việt Nam đánh giá, quy định cho phép bị can, bị cáo nếu không có điều kiện mời luật sư bào chữa thì có thể mời những người có hiểu biết, trình độ pháp lý nhất định để giúp bào chữa trước tòa là rất nhân văn. “Điều này rất có ý nghĩa đối với tình hình dân số còn nghèo, người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa không có đủ điều kiện kinh tế để sử dụng các dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình”, bà Lý nói thêm.
Nhiều chuyên gia pháp lý cũng đồng tình rằng trên thực tế, tại nhiều địa phương, không ít cử nhân luật hoặc những người công tác trong ngành pháp lý đã nghỉ hưu, có năng lực trình độ, am hiểu pháp luật có thể tham gia bào chữa cho người dân không may vướng vào vòng lao lý mà vì nhiều lý do không tiếp cận được với dịch vụ pháp lý của luật sư. Đây chính là nguồn lực dồi dào tham gia vào lực lượng bào chữa viên nhân dân.
Định chế bào chữa viên nhân dân phát huy rất nhiều lợi thế nhưng thực tế vẫn chưa nhiều người dân biết đến. Trong thực tế, hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống, vai trò của bào chữa viên đang dần bị mờ nhạt. Nguyên nhân là do thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho chế định này. Cụ thể, Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự chỉ đề cập đến điều kiện cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa mà không quy định điều kiện, tiêu chuẩn để một người được công nhận là bào chữa viên nhân dân, thẩm quyền công nhận bào chữa viên nhân dân, quyền và nghĩa vụ của bào chữa viên nhân dân, cách thức tổ chức, quản lý và tham gia bào chữa…
Tại hội thảo, Luật sư Triệu Trung Dũng cho rằng luật đã quy định cho phép bào chữa viên nhân dân tham gia bào chữa trong quá trình tố tụng nhưng lại chưa có quy định rõ về tiêu chuẩn, trình độ của bào chữa viên nhân dân. “Chẳng hạn như bào chữa viên nhân dân cần có trình độ hiểu biết về pháp lý, cụ thể là có bằng cấp chứng chỉ đào tạo pháp luật, hay nghiệp vụ cơ bản trong quá trình tố tụng…”, Luật sư Triệu Trung Dũng phát biểu.